Dưới góc nhìn khách quan của các tổ chức quốc tế và giới đầu tư, Việt Nam ngày nay đã và đang có nhiều thành quả to lớn, bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia và xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Theo nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang tiến bước trên lộ trình phát triển nhanh chóng và thành công trong suốt 3 thập kỷ vừa qua, khơi mở cho những tiến triển lớn về kinh tế – xã hội của đất nước.
Ổn định và thịnh vượng
Với công cuộc Đổi mới khởi đầu vào năm 1986, đến thập niên 2000, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,4%, rồi đến năm 2016 đạt mức 6,7%.
Người dân Việt Nam đã đón nhận những tác động trực tiếp từ quá trình tăng trưởng tích cực này. Việt Nam đã giảm nghèo một cách đầy ấn tượng, từ một trong những nước nghèo nhất trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Nếu như ở thập niên 1980, thu nhập bình quân đầu người mới chỉ đạt 100 USD thì đến năm 2015 đã đạt 1.100 USD.
Không những vậy, cơ sở hạ tầng được cải thiện vượt bậc, tác động tích cực tới điều kiện sống. Năm 1993, chưa đến một nửa số gia đình tại Việt Nam có điều kiện sử dụng điện, nhưng đến nay, hầu hết các gia đình đều đã sử dụng điện trong sinh hoạt.
Trước đây, chưa đến một nửa dân số được tiếp cận với nước sạch và vệ sinh thì hiện tại tỷ lệ tiếp cận đã đạt 75%. Một cải thiện khác cho thấy tốc độ tiến bộ mạnh mẽ của Việt Nam đó là Việt Nam đã hoàn thành một số Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (Milennium Development Goals – MDG) trước thời hạn. Đây là một nỗ lực lớn, được thể hiện qua những kết quả đầy thuyết phục.
Theo đánh giá của Đại sứ, Trưởng phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam Bruno Angelet, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong 3 thập kỷ qua kể từ khi chính thức tiến hành công cuộc Đổi mới. Sự ổn định và thịnh vượng của nền kinh tế đến nay đã cho thấy những bước đi đúng đắn mà Việt Nam đã thực hiện với khát vọng trở thành một thành viên hội nhập toàn diện vào hệ thống kinh tế quốc tế.
Còn theo ông Justin Wood, Giám đốc Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong những năm qua, Việt Nam khiến cả thế giới chú ý khi tham gia ngày càng sâu vào cộng đồng quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế.
Ví dụ như, thương mại giữa Việt Nam và thế giới đang ngày càng tăng; Việt Nam đã và sẽ ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), với nhiều cơ hội mở rộng về thương mại và thu hút đầu tư.
Ngoài ra, ông Justin Wood cho rằng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng đã tăng lên mức kỷ lục. Do vậy, điều rất rõ ràng là trong những năm qua, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã khác và Việt Nam đã gắn kết nhiều hơn với thế giới.
Qua tiếp xúc của vị Giám đốc WEF khu vực châu Á – Thái Bình Dương với nhiều tập đoàn toàn cầu đang tìm kiếm cơ hội đầu tư, được biết họ đánh giá Việt Nam là một trong những điểm đến đầu tư và kinh doanh hấp dẫn trên thế giới. Các tập đoàn này cũng đã nhận ra sức ảnh hưởng và tầm quan trọng ngày càng tăng của Việt Nam trên thế giới.
Từ sau ngày Quốc khánh 2/9 đầu tiên vào năm 1945, trải qua quá trình phấn đấu hy sinh gian khổ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sau hơn 30 năm đổi mới từ năm 1986, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật, nhất là trong việc phát triển kinh tế, chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Nền tảng cho sự phát triển đó là quá trình đổi mới cơ chế chính sách, giải phóng và huy động các nguồn lực trong xã hội phục vụ sản xuất kinh doanh.
![]() |
Sự ổn định và thịnh vượng của nền kinh tế đến nay đã cho thấy những bước đi đúng đắn mà Việt Nam đã thực hiện |
Tinh thần kinh doanh mãnh liệt
Theo đánh giá từ nhiều tổ chức quốc tế, sự đa dạng của nền kinh tế Việt Nam gia tăng rõ rệt. Sản phẩm Việt Nam sản xuất và xuất khẩu ra thị trường thế giới tăng dần từ mức độ giản đơn, sơ chế sang các loại sản phẩm có hàm lượng tri thức, khoa học – kỹ thuật cao như linh kiện điện tử, máy móc, phụ tùng …
Việt Nam chủ trương phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN có các thành phần kinh tế đa dạng với sở hữu nhà nước luôn được xác định giữ vai trò chủ đạo. Tư tưởng này vẫn luôn được thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đảng từ khi Đổi mới đến nay.
Sức sống và sự lớn mạnh không ngừng của khu vực kinh tế tư nhân 30 năm qua có quan hệ mật thiết với quá trình chuyển đổi tư duy phát triển nói trên. Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và vai trò ngày càng lớn hơn của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế một mặt thể hiện sức sống bền bỉ, mãnh liệt của tinh thần kinh doanh trong xã hội Việt Nam.
Mặt khác, thực tiễn sinh động đòi hỏi các chính sách kinh tế phải thay đổi trước áp lực của cuộc sống, thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy phát triển ở Việt Nam.
Việt Nam cũng được cho là đang hưởng lợi từ những điểm mạnh thu hút đầu tư của mình. Bên cạnh hàng loạt thay đổi về pháp lý, sự tăng trưởng không ngừng của Việt Nam còn nhờ một số yếu tố cơ bản như Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng với 25% trong số hơn 90 triệu dân thuộc độ tuổi 10 – 24.
GDP bình quân đầu người đang tăng nhanh chóng do tầng lớp trung lưu tại Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh nhất tại Đông Nam Á (12,9%/năm trong giai đoạn 2012 – 2020).
Với tỷ lệ dân số biết đọc, biết viết và dân trí cao, chi phí nhân công tương đối thấp, đồng thời nằm ở vị trí cầu nối và trung tâm trong khu vực ASEAN, ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài chọn Việt Nam làm địa điểm kinh doanh để phục vụ thị trường tại khu vực Mekong và các khu vực khác.
Về kinh tế, Việt Nam đã triển khai các chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý với tỷ lệ lạm phát được duy trì ở mức một con số. Các nhà đầu tư tự tin và tin tưởng vào sự ổn định hiện tại. Đây là một yếu tố khiến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt mức cao trong những năm trở lại đây.
Một yếu tố nữa khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn, đó là vốn đầu tư FDI vào các hoạt động sản xuất được chào đón. Lộ trình mở cửa dần với hầu hết các ngành dịch vụ theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam bắt đầu được tiến hành từ năm 2007 và đã hoàn tất vào năm 2015.
Tất cả đã cho thấy đây là những tiền đề quan trọng và thể hiện khát vọng mạnh mẽ để 10 – 15 năm tới, Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp hiện đại, hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ.
Thanh Loan