Theo điều tra công bố năm 2020 của Tổ chức Nông nghiệp hữu cơ quốc tế (IFOAM), diện tích canh tác hữu cơ tại Việt Nam đã tăng nhanh từ 53.350 ha vào năm 2016 lên khoảng 237.693 ha trong năm 2019; khoảng 46/63 tỉnh, thành phố đang thực hiện và có phong trào sản xuất hữu cơ. Số nông dân tham gia sản xuất hữu cơ là 17.168 người. Số lượng doanh nghiệp sản xuất hữu cơ là 97 doanh nghiệp; tham gia xuất khẩu là 60 doanh nghiệp với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm.
Nông nghiệp hữu cơ vẫn gặp khó
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiêu thụ trong nước và hiện đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới, trong đó có Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia... là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất thế giới.
Vấn đề thị trường đang là "nút thắt" lớn nhất trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. |
Điều này cho thấy, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đang có rất nhiều tiềm năng phát triển. Vì vậy, Bộ NN&PTNT đang xây dựng Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030. Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết, Đề án đặt ra mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới.
Cụ thể, đến năm 2025, diện tích nhóm đất nông nghiệp sản xuất hữu cơ đạt khoảng 1,5-2% tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp. Diện tích đất trồng trọt hữu cơ đạt khoảng trên 1% tổng diện tích đất trồng trọt với các cây trồng chủ lực: lúa, rau đậu các loại, cây ăn quả, chè, hồ tiêu, cà phê, điều, dừa. Tỷ lệ chăn nuôi hữu cơ đạt khoảng 1-2% tính trên tổng sản phẩm chăn nuôi sản xuất trong nước. Diện tích nuôi trồng thủy sản hữu cơ đạt khoảng 0,5-1,5% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản, trong đó một số loài thủy sản đặc sản có giá trị kinh tế cao như tôm nước lợ, tôm càng xanh, các loài thủy sản bản địa...
Bà Tráng Thị Xuân, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Sơn La cho biết, tỉnh đang có chính sách hỗ trợ về kinh phí cho doanh nghiệp (DN), HTX sản xuất nông nghiệp hữu cơ như sản xuất cây ăn quả, rau, chè, thịt lợn... Theo đó, nhiều DN, HTX đã tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tạo dựng được thương hiệu bưởi Thuận Châu, lúa Phù Yên. Giá nông sản hữu cơ như chè búp tươi, thanh long, na... cao hơn từ 12-15% so với sản xuất truyền thống. Theo đó, tỉnh Sơn La mong muốn các HTX, DN tham gia nhiều hơn nữa vào việc phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Tuy vậy, việc triển khai mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang đặt ra nhiều vấn đề. Ông Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam chia sẻ, mấy năm gần đây, Hiệp hội khuyến nghị các DN chuyển đổi sang sản xuất chè theo phương thức hữu cơ. Tuy nhiên, số DN hăng hái làm chưa nhiều, vì đòi hỏi phải có thị trường ổn định, làm theo chuỗi giá trị mới thành công.
Theo ông Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, từ khi chính sách trong Nghị định 109/2018/NĐ-CP về phát triển nông nghiệp hữu cơ được thực thi đã xuất hiện nhu cầu sản xuất hàng hóa lớn từ hàng trăm đến hàng nghìn ha, bởi thị trường tiêu thụ sản phẩm hữu cơ còn rất rộng mở, kể cả trong nội địa và xuất khẩu.
Tuy vậy, sản xuất lớn tất yếu phải có dịch vụ cung cấp vật tư cho nông nghiệp hữu cơ chuyên nghiệp, đủ tầm như phân bón, thức ăn gia súc, thuốc thảo mộc, sinh học... Ông Mịch cho rằng, rất đáng tiếc là Bộ Tiêu chuẩn Việt Nam 1041:2017/2018 với 8 tiêu chuẩn đã ban hành là chưa đủ. Để áp dụng đúng và dễ dàng cho nhà sản xuất, cần thiết phải có bảng danh mục vật tư đầu vào (từ danh mục chi tiết) của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
"Hiện nay có rất nhiều HTX, DN có nhu cầu nhưng đều bế tắc. Vì vậy, chúng ta phải nhận thấy đâu là điểm nghẽn, nút thắt của sự phát triển?", ông Mịch đặt vấn đề.
Không chạy theo phong trào
Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam cũng khẳng định, đã tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ tất yếu phải áp dụng theo một tiêu chuẩn phù hợp với thị trường có nhu cầu, để xác định là sản phẩm hữu cơ phải có đơn vị chứng nhận. Bởi vậy, vấn đề hoạt động của các đơn vị chứng nhận sản phẩm hữu cơ cần được xây dựng, hình thành các quy định. Sự công tâm, minh bạch là rất cần thiết để cộng đồng giám sát ngoài sự giám sát của cơ quan nhà nước.
Hiện nay, đã xuất hiện một số chứng nhận sản phẩm hữu cơ không rõ ràng được bán trên thị trường, nhưng không ghi rõ trên bao bì các thông tin. "Lĩnh vực chứng nhận là rất nhạy cảm. Nếu quản lý, giám sát không tốt sẽ phản tác dụng như bài học chứng nhận VietGAP trước đây", ông Mịch cảnh báo.
Hơn nữa, việc triển khai đưa chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ vào thực thi ở các tỉnh, thành phố đang rất chậm, chưa được quan tâm chỉ đạo, là một trở ngại cho phát triển. Ông Mịch cho biết, có tình trạng "dân mong, doanh nghiệp cần nhưng các cấp đang... nghiên cứu".
Về phía địa phương, ông Đinh Công Sứ - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình, cũng nêu ra một loạt vấn đề trong phát triển nông nghiệp hữu cơ, như: sản phẩm hữu cơ đang phải cạnh tranh với các sản phẩm trôi nổi trên thị trường nhưng tự nhận là hữu cơ, diện tích canh tác còn thấp, kỹ thuật áp dụng chưa đồng bộ, chủ yếu là kinh nghiệm tự rút ra của người sản xuất, sản phẩm theo mùa vụ nên khó duy trì kênh phân phối... Điều này khiến người sản xuất không mặn mà áp dụng theo phương thức sản xuất hữu cơ.
Đại diện tỉnh Hòa Bình kiến nghị: Nhà nước cần có tiêu chuẩn cho vật tư đầu tư đầu vào phục vụ sản xuất hữu cơ, khẩn trương có quy trình hướng dẫn sản xuất hữu cơ, tăng cường kiểm soát sản phẩm hữu cơ trên thị trường, đảm bảo dán nhãn đúng phẩm cấp, tiêu chuẩn, xử lý nghiêm việc sản phẩm không phải hữu cơ nhưng dán nhãn mác hữu cơ.
Mặt khác, nhiều quan điểm cho rằng, việc phát triển nông nghiệp hữu cơ phải theo chuỗi giá trị, như vậy mới giải quyết tốt bài toán đầu vào và đầu ra. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ tuyệt đối không chạy theo phong trào, để tránh những hệ luỵ khó lường.
Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan, muốn phát triển nông nghiệp hữu cơ thì phải giải quyết được tất cả các rủi ro. Làm sao xây dựng được hệ sinh thái phục vụ nông nghiệp hữu cơ như người nông dân, nhà khoa học, người tiêu dùng... Lúc đó, Việt Nam chắc chắn sẽ thành công trong phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Ông Trần Thanh Nam Thứ trưởng Bộ NN&PTNT So sánh với Mỹ, châu Âu - những nước có trình độ phát triển nông nghiệp hàng đầu thế giới, Việt Nam có thể đạt được trình độ phát triển như họ. Tuy nhiên, phát triển hữu cơ cần đi đôi với quản lý sản phẩm hữu cơ, tập trung phát triển một số sản phẩm có thế mạnh ở địa phương, chứ không làm ồ ạt; triển khai các chương trình đào tạo nông dân, HTX sản xuất theo đúng quy trình nông nghiệp hữu cơ... Bà Đỗ Thị Minh Hoa Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn Bộ NN&PTNT nên có sự hỗ trợ kịp thời cho các vùng có tiềm năng phát triển nông nghiệp hữu cơ. Nếu những vùng có tiềm năng không được chọn, không được hỗ trợ thì rất khó cho các địa phương tự tổ chức sản xuất hữu cơ. Đặc biệt, việc tổ chức sản xuất phải đồng bộ, chuẩn bị kỹ lưỡng, nếu không sẽ đánh mất đi uy tín của nông nghiệp hữu cơ. Bài học từ sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP đã cho thấy nếu sản xuất theo tiêu chuẩn mà vẫn làm manh mún, nhỏ lẻ, ồ ạt, hàng đem bán giá như ngoài chợ thì không thể gia tăng giá trị. TS. Ngô Kiều Oanh Chuyên gia về sản xuất nông nghiệp hữu cơ Thị trường của nông nghiệp hữu cơ thường phục vụ cho người dùng có thu nhập cao, vì vậy đây không phải là thị trường lớn. Vậy, tại sao chúng ta không phát triển nông nghiệp hữu cơ đi kèm du lịch? Du khách sẽ là khách hàng của nông nghiệp hữu cơ. Đây sẽ là thị trường cực kỳ lớn cho nông nghiệp hữu cơ. Du lịch là thị trường hấp dẫn cho người dân khắp nơi, hay chính những người sản xuất hữu cơ. |
Lê Thúy