Là doanh nghiệp (DN) có thâm niên xuất khẩu (XK) nông sản vào những thị trường khó tính như Mỹ, EU…, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng Giám đốc công ty Vina T&T, than phiền các DN kinh doanh XK hiện nay chủ yếu vẫn là xuất nông sản thô, chưa qua chế biến.
Yếu và thiếu
Đơn cử như XK nông sản vào thị trường Mỹ. Ông Tùng cho biết Mỹ tăng cường kiểm soát kỹ thuật thương mại, cơ chế kiểm dịch thông qua các tiêu chuẩn như: GMP, ISO, HACCP, an toàn vệ sinh thực phẩm… trong sản xuất và chế biến mặt hàng nông sản trước khi đưa vào thị trường nước này.
“Muốn đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của Mỹ đối với hàng nông sản thì phải quan tâm từ khâu chọn giống, kỹ thuật chăm sóc, kỹ thuật thu hoạch đến xử lý sau thu hoạch, bảo quản, vận chuyển… Thế nhưng, sản xuất kinh doanh mặt hàng này của Việt Nam khá lạc hậu, nhỏ lẻ, thiếu tính liên kết và còn manh mún”, ông Tùng băn khoăn.
Chia sẻ với giới DN trong khuôn khổ Triển lãm quốc tế về công nghệ chế biến, đóng gói và bảo quản nông sản thực phẩm (Vietnam PFA 2019) tổ chức ở Tp.HCM ngày 24/7, ông Tùng cho rằng khi các DN XK Việt Nam chưa nắm rõ hệ thống quy định về pháp luật của Mỹ thì thường cảm thấy khó xuất hàng vào thị trường này.
Còn theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT), khả năng chế biến đối với một số ngành hàng nông sản còn yếu, chưa sử dụng hết công suất chế biến. Thực chất là chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là vào cao điểm của mùa vụ như rau quả, thịt (số lượng đưa vào chế biến chỉ chiếm 5 – 10% sản lượng).
Chưa kể, nhiều cơ sở chế biến của nhiều ngành hàng nông sản có tuổi đời trên 15 năm (chiếm trên 70%) với thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp (chè, cao su, sắn). Hệ số đổi mới thiết bị chỉ ở mức 7%/năm, bằng 1/2 – 1/3 mức tối thiểu của các nước khác.
Điều đáng nói, sản phẩm chế biến chủ yếu vẫn là sơ chế có giá trị gia tăng thấp, chiếm 70 – 85%. Sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao chỉ chiếm khoảng 15 – 30%, trong đó thủy sản khoảng 30%, còn các loại nông sản khác khoảng 10 – 20%, riêng sản phẩm bao gói nhỏ cung cấp cho bán lẻ chỉ chiếm khoảng 10%.
Số liệu khảo sát cho thấy hiện nay, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản có công suất thiết kế đảm bảo chế biến khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu/năm, có trên 7.500 DN quy mô công nghiệp gắn với XK.
Mặc dù vậy, ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, bày tỏ băn khoăn là sự phát triển của ngành chế biến nông sản chưa tương xứng với tiềm năng, còn bộc lộ những tồn tại, nút thắt trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp.
Sức phát triển ngành chế biến nông sản chưa tương xứng với tiềm năng |
Vốn ít, công nghệ cũng ít
Theo ông Toản, với mục tiêu đến năm 2030, kim ngạch XK nông lâm thuỷ sản đạt 65 – 70 tỷ USD (bằng 200% so với hiện nay), công nghiệp chế biến nông sản cần đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và trình độ công nghệ đạt trung bình tiên tiến trở lên.
Trao đổi với Thời báo Kinh Doanh xoay quanh công nghệ chế biến rau quả hiện nay, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhận định cơ chế chính sách chưa đủ mạnh và chưa đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư vào chế biến rau quả. Thực tế là một số chính sách như đất đai, tài chính, tín dụng, khoa học công nghệ… chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn sản xuất kinh doanh của ngành hàng này.
Theo ông Nguyên, trong công nghệ chế biến, nhất là bảo quản và chế biến sâu vào ngành rau quả, hiện còn rất yếu và ít có nhà đầu tư. Muốn đẩy mạnh khâu chế biến rau quả rất cần sự đầu tư, chuyển giao công nghệ từ nước ngoài.
“Thế nhưng, việc thu hút các nhà đầu tư ngoại vào lĩnh vực nông nghiệp còn rất ít, chỉ chiếm tỷ trọng 1 – 2% trong tổng nguồn vốn đầu tư nước ngoài hàng năm. Chính vì nguồn vốn đầu tư ít nên công nghệ chế biến cũng ít”, ông Nguyên chia sẻ.
Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả cũng lưu ý là nguồn cung trái cây của cả nước hàng năm là trên 10 triệu tấn, trong khi XK trái cây chỉ vào khoảng 1 – 1,5 triệu tấn, số còn lại thực chất là không XK được, phải tiêu thụ nội địa.
Thực tế, nếu các DN XK biết nhìn vào thị trường nội địa để phát triển công nghiệp chế biến thì sẽ vừa mang lại thế mạnh cho ngành rau quả Việt, vừa gia tăng thêm lợi nhuận cho DN.
Ngoài việc XK trái cây tươi, DN có thể đầu tư vào công nghệ bảo quản, công nghệ chế biến tốt để có thể tiêu thụ được khối lượng lớn nông sản còn lại ở trong nước, đặc biệt là tạo ra những sản phẩm chế biến thay vì đổ bỏ (do tổn thất sau thu hoạch hiện nay rất lớn, khoảng 40%).
Trước bối cảnh công nghệ chế biến nông sản còn phập phù, giới chuyên gia khuyến nghị cần sớm phát triển các cụm liên kết sản xuất – chế biến và tiêu thụ nông sản tại các địa phương. Đặc biệt là ở các vùng có sản lượng nông sản lớn, thuận lợi giao thông, lao động, logistics, có tiềm năng trở thành động lực tăng trưởng cho cả khu vực.
Hơn thế nữa, nên lựa chọn các DN “đầu tàu” có đủ năng lực về vốn, khoa học công nghệ và thị trường để dẫn dắt chuỗi giá trị chế biến nông sản, vận hành một cách thông suốt, hiệu quả.
Thế Vinh