Tại Hội thảo Việt Nam Nhập khẩu gỗ nguyên liệu: Cơ hội và rủi ro trong bối cảnh hội nhập diễn ra ngày 4/4, Ts. Tô Xuân Phúc, chuyên gia tổ chức Forest Trends, cho biết những năm gần đây, lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu ngày càng tăng và đa dạng về chủng loại gỗ, quốc gia nhập khẩu. Lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu gồm gỗ tròn và gỗ xẻ có xu hướng tăng khoảng trên 10%/năm.
Mỗi năm Việt Nam NK 160-170 loại gỗ khác nhau từ 70-90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2015, lượng gỗ nguyên liệu NK lên tới 4,79 triệu m3 gỗ tròn tăng 11,3% so với lượng NK của năm 2014 và 1% so với năm 2013.
Từ gỗ quý sang gỗ “sạch”
Giá trị kim ngạch NK gỗ nguyên liệu ở mức cao khoảng 1,5-1,7 tỷ USD/năm, tương đương 20-25% tổng kim ngạch XK gỗ và các sản phẩm gỗ.Mặc dù tăng về số lượng gỗ nguyên liệu NK nhưng giá trị kim ngạch gỗ nguyên liệu NK của năm 2015 giảm 60 triệu USD so với giá trị kim ngạch của năm 2014.
Phân tích thị trường gỗ nguyên liệu, Ts. Tô Xuân Phúc cho rằng thời gian qua có sự dịch chuyển trong cơ cấu NK gỗ, chuyển từ các loại gỗ có giá trị cao gồm các loại gỗ quý, có nguồn gốc tự nhiên sang các loại gỗ phổ biến, có nguồn gốc từ rừng trồng, có giá trị thấp hơn.
Nguyên nhân của sự chuyển dịch bắt nguồn từ sự cạn kiệt dần nguồn nguyên liệu gỗ quý, sự giảm nhu cầu tiêu thụ các loài gỗ này, đặc biệt phải kể đến sự sụt giảm của thị trường Trung Quốc. Các DN nhập khẩu cũng chuyển hướng đẩy mạnh tiêu thụ tại thị trường Việt Nam, nhu cầu sử dụng các loại gỗ có giá trị thấp hơn được NK dành cho thị trường nội địa vì thế cũng gia tăng theo.
Bên cạnh đó, nguồn rừng trồng trong nước cũng đang từng bước đáp ứng được nhu cầu cho các DN, thay thế một phần nguyên liệu NK. Ngoài ra, xu hướng dùng ván nhân tạo thay thế cho nguồn gỗ nhiệt đới nhập khẩu, có nguồn gốc tự nhiên, cũng là nguyên nhân khiến giá trị kim ngạch NK gỗ giảm.
Trong bối cảnh hội nhập, khi ngành gỗ Việt Nam là một bộ phận trong chuỗi cung gỗ quốc tế, vì vậy phải bắt buộc tuân thủ luật chơi quốc tế. Mà yếu tố minh bạch, tính hợp pháp về nguồn gốc, xuất xứ, yêu cầu những chứng nhận pháp lý về nguồn gốc gỗ nguyên liệu là một đòi hỏi của các thị trường lớn như Mỹ, EU thì việc chuyển dịch cơ cấu này là một tín hiệu tương đối tốt, tạo nhiều cơ hội XK gỗ trong tương lai.
![]() |
Mỗi năm Việt Nam nhập khẩu 160-170 loài gỗ khác nhau từ 70-90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới
Rà soát loại gỗ được nhập khẩu
Bên cạnh tín hiệu sáng đó, ngành gỗ vẫn mang trong mình rủi ro khi nhập nhiều loại gỗ quý từ Lào, Campuchia. Lào là quốc gia cung ứng quan trọng hàng đầu gỗ nguyên liệu cho Việt Nam. Trong giai đoạn từ năm 2013-2015, lượng gỗ nguyên liệu từ Lào bán sang Việt Nam lên tới 0,7-0,8 triệu m3 gỗ quy tròn với trên 70 loại gỗ khác nhau, kim ngạch NK 300-400 triệu USD.
Gỗ từ Lào chuyển sang Việt Nam chủ yếu là các loại gỗ quý có giá trị thị trường cao. Nguồn này, đặc biệt là các loại gỗ thuộc nhóm 1-2 chủ yếu được XK sang Trung Quốc, Hồng Kông và Ấn Độ qua các hình thức tạm nhập tái xuất hoặc qua các sản phẩm bán thành phẩm. Nguồn cung gỗ nguyên liệu NK từ Lào rất quan trọng nhưng kiểm soát hiệu quả tính hợp pháp của nguồn cung gỗ từ Lào sẽ là thách thức lớn cho các cơ quan quản lý.
Một rủi ro khác cho ngành gỗ Việt Nam được coi là đến từ thị trường Campuchia. Đây là nguồn cung gỗ với tỷ trọng lớn các loại gỗ quý thuộc nhóm 1-2 cho Việt Nam. Kể từ năm 2014 đến nay, gỗ nguyên liệu NK từ Campuchia vào Việt Nam tăng rất mạnh. Đây là quốc gia đứng thứ 3 trong số các nước có nguồn cung gỗ xẻ lớn nhất cho Việt Nam. Lượng gỗ từ Campuchia NK vào Việt Nam vẫn có xu hướng tăng.
Các chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh hội nhập, ngành gỗ Việt Nam muốn phát triển bền vững thì phải đáp ứng được các yêu cầu chính đáng về tính pháp lý, nguồn gốc nguyên liệu gỗ từ các thị trường NK. Chính vì vậy, kiểm soát rủi ro về nguồn gốc gỗ đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận được với các thông tin minh bạch có liên quan đến các loại gỗ NK.
Để thực hiện điều này, bước quan trọng đầu tiên mà Việt Nam nên tiến hành là chuẩn bị danh sách tất cả các loại gỗ nguyên liệu được NK vào Việt Nam. Danh sách này cần có tên của các loại gỗ, bao gồm tên địa phương, tên tiếng Anh và tên La Tinh. Danh sách cũng cần có thông tin về địa bàn khai thác của từng loại gỗ.
Việt Nam có thể yêu cầu sự trợ giúp của các cơ quan chức năng từ các quốc gia NK gỗ nguyên liệu vào Việt Nam nhằm cung cấp thông tin về địa bàn khai thác, tình trạng đất đai, tình trạng sở hữu đối với cây đứng… đối với từng loại gỗ nhập khẩu. Các thông tin sẽ góp phần quan trọng trong việc xác định các rủi ro có liên quan trực tiếp nguồn gỗ nguyên liệu NK.
Bên cạnh đó, thông tin trao đổi với các DN trực tiếp đang tham gia NK sẽ giúp cơ quan quản lý của Việt Nam có một bức tranh hoàn thiện hơn về gỗ nguyên liệu NK, từ đó giúp cho việc xác định các cơ chế kiểm soát gỗ NK hiệu quả trong tương lai.
Thu Hường