![]() |
Toàn cảnh Hội thảo |
Tại hội thảo: "Triển vọng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025: Cơ hội và thách thức từ các Hiệp định thương mại tự do", được tổ chức ngày 21/11, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2016-2020 đã đi được gần hết chặng đường, dù còn khó khăn nhưng kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng.
Tính chung giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế khoảng 6,84%/năm (đạt mục tiêu 6,5-7% kế hoạch 2016-2020 đã đề ra).
Nhìn từ phía cung, khu vực công nghiệp, xây dựng (CNXD) và khu vực dịch vụ là hai khu vực dẫn dắt tăng trưởng chung, bù đắp cho sự giảm sút của khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản, do đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là vào các năm 2016 và 2019.
Đóng góp của khu vực CNXD vào tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã tăng lên hơn 44% (so với mức tương ứng 39,9% giai đoạn 2011-2015). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CNCBCT) mặc dù có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại do sức cầu bên ngoài giảm sút nhưng vẫn có mức tăng khá, trung bình 12,8%/năm trong giai đoạn 2016-2019, đóng góp 32% vào tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế.
Từ phía cầu, tăng trưởng kinh tế cao nhờ tiêu dùng tăng cao hơn và thặng dư thương mại lớn hơn giai đoạn trước. Xuất khẩu duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đặc biệt là ở một số thị trường đối tác CPTPP và thị trường Mỹ, trong bối cảnh thương mại quốc tế giảm sút, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn biến khó lường.
Năng suất lao động giai đoạn này tăng trung bình 5,8%/năm (so với mức tăng tương ứng 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015). Tỷ lệ nợ công và nợ chính phủ giảm nhanh theo chiều hướng vững chắc hơn. Môi trường kinh doanh có sự cải thiện tích cực, góp phần thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển.
Tuy nhiên, các chuyên gia đánh giá nhìn chung mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 vẫn chưa có sự thay đổi rõ nét. Tăng trưởng vẫn chủ yếu phụ thuộc vào vốn (tỷ lệ vốn đầu tư/GDP vẫn ở mức cao, trung bình 33,5%), đóng góp của nhân tố vốn trong tăng trưởng vẫn chiếm tỷ lệ lớn (trên 55%).
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch quá nhanh sang khu vực dịch vụ trong khi nền tảng công nghiệp còn yếu. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển, tính chất gia công còn lớn. Các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao đóng góp còn thấp, chi phí dịch vụ logistics còn cao.
Xuất khẩu vẫn phụ thuộc và nhóm hàng do doanh nghiệp FDI dẫn dắt. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng hàm lượng nội địa trong xuất khẩu không tăng tương ứng.
Các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tham gia nhiều vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năng lực đổi mới sáng tạo chưa được cải thiện nhiều và vẫn là điểm nghẽn trong phát triển kinh tế của Việt Nam khi Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025, các chuyên gia dự báo có nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen. Trong đó, Việt Nam có nhiều cơ hội cũng như thách thức từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, việc tham gia ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt là Hiệp định CPTPP và EVFTA sẽ tác động sâu, rộng tới nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025.
Cả CPTPP và EVFTA đều có lĩnh vực cam kết tương đối rộng so với các FTA khác, không chỉ nằm trong lĩnh vực trao đổi, xuất nhập khẩu mà còn liên quan đến cách thức sản xuất ra hàng hoá để trao đổi. Cả hai hiệp định nhìn chung đều có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng, xuất khẩu, đặc biệt trong thị trường các nước nội khối. EVFTA dự báo sẽ có tác động lớn hơn CPTPP, do CPTPP đã có nhiều thành viên tham gia các hiệp định FTA khác với Việt Nam trước đó.
Cụ thể, EVFTA và CPTPP có thể giúp GDP Việt Nam tăng thêm lần lượt 4,3% và 1,3% vào năm 2030. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đến năm 2030 dự kiến sẽ tăng thêm khoảng 44,4%; xuất khẩu sang các nước trong CPTPP đến năm 2035 tăng 14,3%.
Ngoài ra, các hiệp định này cũng có tác động tích cực tới lao động, trong đó những ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày là những ngành dự báo sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Tác động tích cực từ các hiệp định này còn có thể đến từ việc tạo sức ép cải thiện thể chế và môi trường kinh doanh, do đó kỳ vọng tạo ra những tác động tích cực trong trung và dài hạn.
Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia dự báo tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ đạt khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2025; kinh tế vĩ mô về cơ bản ổn định, lạm phát ở mức 3,5-4,5%/năm. Năng suất lao động cải thiện hơn với tốc độ tăng khoảng 6,3%/năm. Với kết quả tăng trưởng này, đến năm 2025, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 4.688 USD, đưa Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao.
Thanh Hoa