![]() |
Tại Hội thảo với chủ đề “Chất lượng điều kiện kinh doanh: Vấn đề và kiến nghị” tổ chức ngày 27/2, bà Nguyễn Minh Thảo - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng điều kiện kinh doanh được cắt bỏ chủ yếu dưới hình thức “đơn giản hóa”, ít cắt bỏ; giảm mức độ yêu cầu về số lượng nhân sự hoặc giảm yêu cầu về quy mô diện tích của cơ sở vật chất; thể hiện dưới hình thức sửa đổi nhưng nhiều quy định sửa đổi mang tính hình thức hơn là thực chất.
Chất lượng cắt giảm chưa đạt
Trong giai đoạn 2017-2019, đã có gần 40 văn bản của Chính phủ chỉ đạo các nội dung về cải cách điều kiện kinh doanh. Vì thế, các bộ, ngành đã nỗ lực rà soát, đề xuất cắt bỏ, đơn giản khoảng 50% số điều kiện kinh doanh để giảm gánh nặng về quy định, thủ tục.
Hiện đã có 29 văn bản quy phạm pháp luật của các bộ ngành về cắt giảm điều kiện kinh doanh, cắt bỏ gần 3.500 điều kiện kinh doanh, nhờ vậy mà đã giảm được thời gian, chi phí và rủi ro cho cộng đồng doanh nghiệp. Tuy vậy, đây mới chỉ là thành công bước đầu, mới đạt về số lượng chứ chưa đạt về chất lượng. Trong các điều kiện hiện hành, vẫn còn những điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý hoặc không có ý nghĩa về hiệu quả quản lý nhà nước.
Bà Thảo cho rằng việc cắt giảm chủ yếu dưới hình thức “đơn giản hóa”, ít cắt bỏ. Vì thế, vẫn còn các điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý hoặc không có ý nghĩa về hiệu quả quản lý nhà nước hoặc điều kiện trong điều kiện kinh doanh. Vẫn còn điều kiện kinh doanh thiếu rõ ràng, có thể dẫn tới sự tùy ý của cơ quan quản lý nhà nước.
Cụ thể, đến hết năm 2019, hơn 30 văn bản về điều kiện kinh doanh được ban hành, về cơ bản các điều kiện kinh doanh quy định chung chung, thiếu rõ ràng, can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc dễ tạo sự tùy ý trong thực thi đã được cắt; các điều kiện kinh doanh trùng lặp cũng được cắt bỏ, chuyển điều kiện kinh doanh sang quản lý theo quy chuẩn và tiêu chuẩn. Cùng với đó, một số điều kiện kinh doanh được sửa đổi theo hướng giảm bớt yêu cầu.
"Kết quả rà soát độc lập cho thấy đã cắt giảm thực chất được khoảng hơn 30% điều kiện kinh doanh", bà Thảo nhấn mạnh.
Chẳng hạn, một số ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện không thoả mãn các tiêu chí theo quy định. Dẫn ví dụ từ việc cắt giảm điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm (ATTP) như: kinh doanh xuất khẩu gạo, kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng thực phẩm đông lạnh, CIEM cho biết Luật ATTP năm 2010 quy định, quản lý ATTP phải trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, quy định do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do tổ chức cá nhân sản xuất công bố áp dụng; quản lý ATTP phải được thực hiện trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với ATTP.
Theo đó, doanh nghiệp phải đảm bảo ATTP chứ không quy định các điều kiện để một doanh nghiệp được kinh doanh thực phẩm. Tuy nhiên, Bộ Y tế đề xuất bãi bỏ kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ Y tế, trong khi lĩnh vực này thuộc quản lý chuyên ngành của Bộ Công Thương và Bộ NN&PTNT thì không đề xuất bãi bỏ.
Thay đổi cách quản lý
Các chuyên gia cho rằng, mặc dù các Bộ báo cáo đã hoàn thành chỉ tiêu cắt giảm điều kiện kinh doanh, nhưng chưa có báo cáo đánh giá về hiệu quả và tác động của cải cách; thiếu giám sát việc tổ chức thực hiện. Thực tiễn thực thi và cảm nhận của doanh nghiệp về hiệu quả cải cách điều kiện kinh doanh còn hạn chế.
Vì vậy, để tạo đột phá mới về cải cách điều kiện kinh doanh cần phải có những thay đổi về quản lý nhà nước.
Ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, Văn phòng Chính phủ mới đây đã lấy ý kiến về Dự thảo Quyết định về kế hoạch cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh giai đoạn 2020-2025. Theo đó, mục tiêu cụ thể là cắt giảm ít nhất 20% số lượng văn bản đã ban hành thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ; cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh trong mỗi năm.
Tuy nhiên, theo ông Tuấn, thời gian tới, để cắt giảm được thực chất, quá trình soạn thảo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư sửa đổi cần tiếp tục thúc đẩy tự do kinh doanh, xóa bỏ rào cản gia nhập thị trường. Hơn nữa, các bộ, ngành cần tính toán đầy đủ chi phí lợi ích của quy đinh, thúc đẩy cạnh tranh, tăng cường kỷ luật thị trường.
Đặc biệt, nhiều chuyên gia nhấn mạnh đến vai trò của việc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Đồng thời đề xuất cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi các luật có liên quan để bãi bỏ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh được quy định tại các luật chuyên ngành. Song song đó, giám sát việc tổ chức thực hiện, xử lý nghiêm những hành vi cố tình gây khó khăn cho doanh nghiệp, thiết lập cơ chế đối thoại và phản hồi của cộng đồng doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của tiến trình cải cách...
Thanh Hoa