Đó là đánh giá của bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tại Hội thảo Môi trường kinh doanh Việt Nam 2016 - 2019 qua xếp hạng Doing Business: Kết quả và một số gợi ý cải cách, diễn ra sáng 28/10.
Tăng bậc do các nước thụt lùi
Đại diện nhóm nghiên cứu CIEM cho biết theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), năng lực cạnh tranh của Việt Nam có bước tăng trưởng ấn tượng với 10 bậc và 3,5 điểm trong năm 2019, từ thứ hạng 77 lên 67. Trong đó, có 8/12 chỉ số tăng điểm và tăng hạng, gồm thể chế, ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ năng, thị trường sản phẩm, thị trường lao động, quy mô thị trường, mức độ năng động trong kinh doanh, năng lực đổi mới sáng tạo.
Tuy vậy, theo đánh giá của các chuyên gia, vẫn còn nhiều thách thức. Đó là 8/12 trụ cột có thứ hạng thấp hoặc rất thấp (dưới thứ hạng 67)
Cải cách có xu hướng chững lại trong năm 2018 - 2019. Năm 2019 chỉ có 2 cải cách được ghi nhận (nộp thuế và tiếp cận tín dụng), chỉ số tiếp cận điện năng tiếp tục duy trì thứ hạng.
Nhóm nghiên cứu CIEM cho rằng mặc dù số lượng cải cách được ghi nhận rất ít, song Việt Nam vẫn tăng bậc do các nước bị thụt lùi.
Chẳng hạn, về phá sản tuy giảm 1 điểm nhưng lại tăng đến 11 bậc, như vậy không phải do cải cách mà do các nước giảm bậc. Ngoài ra, có 4 chỉ số giảm bậc mà không có cải cách nào được ghi nhận: bảo vệ nhà đầu tư giảm 8 bậc); giao dịch thương mại qua biên giới giảm 4 bậc…
“Chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam dù tăng 10 bậc trên bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019, xếp thứ 67, nhưng môi trường kinh doanh vẫn tồn tại nhiều rào cản; không ít bộ, ngành còn “thỏa hiệp” phân chia quyền quản lý”, bà Thảo nói.
Đồng tình, chuyên gia Lê Duy Bình cho hay số lượng cải cách chưa nhiều, chưa nói đến chất lượng cải cách. “Xếp hạng của Doing Business đánh giá ở cấp độ vĩ mô, cần có những hành động cụ thể thông qua chính sách cụ thể được thể hiện ở số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) như cải cách thủ tục hành chính... mới thể hiện được đúng thực tế cải cách của Việt Nam”, ông Bình phân tích.
Theo xếp hạng của WB, trong 2 năm gần đây, điểm số của Việt Nam tiếp tục được cải thiện nhưng chậm, thứ hạng mỗi năm giảm 1 bậc. Cải cách được ghi nhận tích cực nhất vào năm 2017.
Cụ thể, có 2 chỉ số cải thiện vượt trội trong giai đoạn này là tiếp cận điện năng (tăng 69 bậc); nộp thuế và BHXH (tăng 58 bậc). Có 3 chỉ số tăng hạng bởi có cải cách, gồm tiếp cận tín dụng tăng (7 bậc), khởi sự kinh doanh (tăng 6 bậc), nộp thuế và BHXH (tăng 58 bậc).
Cũng theo xếp hạng của WB, có 1 chỉ số tăng hạng nhưng do các nước khác giảm bậc là giải quyết phá sản của doanh nghiệp (DN), lần lượt từ vị trí 125, 129, 133 lên vị trí 122 thế giới. “Giải quyết phá sản DN trong nhiều năm không có cải cách, thời gian kéo dài; tỷ lệ DN phục hồi sản xuất kinh doanh thấp. Trong ASEAN, xếp hạng chỉ số này của Việt Nam chỉ đứng trên Lào”, bà Thảo nói.
Cải cách môi trường kinh doanh cần tiếp tục được cải cách thực chất |
Doanh nghiệp vẫn giữa “muôn trùng vây”
Theo các chuyên gia, thời gia qua, Chính phủ đã nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, rõ nét nhất là cắt giảm ngành nghề kinh doanh có điều kiện và đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thay đổi phương thức quản lý chuyên ngành…, song điều kiện kinh doanh vẫn là trở ngại chính và rào cản khiến DN khó bứt phá.
Hiện, Việt Nam đứng thứ 5 trong ASEAN. Khoảng cách với các nước Singapore, Malaysia càng ngày càng xa. Còn trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam đứng thứ 10, chỉ hơn Peru.
Những cản trở trên còn được thể hiện ở sự “chia phần” quản lý các văn bản pháp luật giữa các cơ quan quản lý nhà nước, gây khó khăn hơn cho DN.
Tiếp đến là quản lý, kiểm tra chuyên ngành chậm cải cách, thậm chí có những văn bản mới được ban hành đi ngược lại với chỉ đạo của Chính phủ, hoặc thể hiện cải cách hình thức, thiếu thực chất. Hay thanh kiểm tra vẫn là nỗi lo đối với DN. Cùng một quy định chính sách nhưng cách thức thực thi khác nhau. Tình trạng tùy tiện áp dụng pháp luật và phần “thua” luôn thuộc về DN vẫn phổ biến.
Thẳng thắn điểm tên một số bộ ngành “khai thác” yêu cầu quản lý mặt hàng theo mã hồ sơ để mở rộng thêm đối tượng quản lý như Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Công Thương, bà Thảo cho biết các DN trước đây hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động xin cấp phép tại một đầu mối là Bộ LĐTB&XH, nhưng nay phải xin giấy phép của 9 Bộ với cùng một nội dung công việc.
“Cá biệt, kết quả kiểm định không được các Bộ thừa nhận kết quả của nhau mà vẫn phải yêu cầu tham gia đào tạo lại để cấp chứng chỉ, trong khi DN phải trả khoảng 10 triệu đồng/người chi phí đào tạo”, bà Thảo cho hay.
Quá trình rà soát các điều kiện kinh doanh của CIEM cũng cho thấy trong công tác kiểm tra chuyên ngành, Bộ Công Thương chậm cải cách, thậm chí có những văn bản mới được ban hành đi ngược với chỉ đạo Chính phủ, hoặc thể hiện cải cách hình thức, thiếu thực chất.
Ví dụ, khi công bố danh mục các mặt hàng (kèm mã hồ sơ) đã được cắt giảm kiểm tra chuyên ngành thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương, trong đó có hàng trăm mặt hàng sắt thép, dệt may được liệt kê trong danh mục.
Tuy nhiên, nội dung trong quyết định công bố danh mục của Bộ chỉ là không kiểm tra trong giai đoạn thông quan, mà chuyển sang… sau thông quan.
“Có hay không bệnh thành tích với số liệu báo cáo là hàng trăm mặt hàng kiểm tra chuyên ngành đã được cắt bỏ, nếu không muốn nói là có sự thỏa hiệp phân chia quyền quản lý giữa các bộ ngành?”, bà Thảo nêu quan điểm.
Hay chi phí không chính thức còn phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực. Cùng một quy định chính sách, nhưng cách thức thực thi khác nhau và nhiều Bộ tuỳ tiện trong áp dụng pháp luật. Theo khảo sát của CIEM, tất cả các DN xuất khẩu gạo đều phải chi trả chi phí không chính thức với mức cao cho các tổ chức kiểm định. Các tổ chức này thường yêu cầu DN phải chi ngoài với mức 25-30 đồng/kg gạo, tương đương với 25-30 triệu đồng/1.000 tấn.
Thanh Hoa
Ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế, VCCI Ngành hải quan cần sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành liên quan đến thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa. Theo đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu theo chỉ đạo của Chính phủ tại các Nghị quyết 19 hàng năm như áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, chuyển căn bản về hậu kiểm, áp dụng các thông lệ quốc tế và ứng dụng công nghệ thông tin. Ngoài ra là các quy định liên quan đến thuế và quản lý thuế như cách xác định trị giá, các thủ tục không thu thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế. Ông Trương Văn Cẩm - Phó Tổng thư ký kiêm Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam Năm 2019 có 2 chỉ số có tiến bộ là nộp thuế và tiếp cận tín dụng. Tuy nhiên, chỉ số về hoàn thuế cho DN lại đang rất vướng mắc. Chẳng hạn, có một số DN mở rộng sản xuất mở rộng hoạt động kinh doanh, nhập máy móc thiết bị, thì quy định phần mở rộng sản xuất không được hoàn thuế ngay mà phải chờ thuế giá trị gia tăng phát sinh mới được hoàn thuế. Quy định này khiến có DN nợ đọng 30 tỷ đồng tiền hoàn thuế. Đây là bất hợp lý, cần sớm sửa đổi để tạo điều kiện cho DN. Ts. Nguyễn Đình Cung - Nguyên Viện trưởng CIEM Thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất nỗ lực cải cách và quyết liệt thúc đẩy cải cách, nhưng thứ hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn chưa cải thiện nhiều dù điểm số có tăng. Hai từ khóa là giảm chi phí, giảm rủi ro và phía sau đó là giảm rào cản, tăng mức an toàn trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nhìn vào hoạt động xây dựng luật pháp thì lại có tình trạng một cải cách nhưng lại có hai, ba điểm không cải cách khác kéo lại, ví dụ Bộ luật Lao động sửa đổi vẫn đang có những tranh cãi về việc tăng giờ làm thêm. Việc tăng giờ làm thêm sẽ giúp thị trường lao động linh hoạt hơn, người lao động vẫn có thể tự bảo vệ mình với sự hỗ trợ của Nhà nước. |