Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vừa ban hành Quyết định 1349/QĐ-NHNN về mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Ngân hàng Nhà nước.
Trong đó, đáng chú ý là thay đổi đối với lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ bị giảm từ 0,05% xuống còn 0%/năm.
Tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ giảm từ 0,05% về 0% từ ngày 1/9 tới. |
Cụ thể, mức lãi suất áp dụng đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam là 0,5%/năm; đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 0%/năm; đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam là 0%/năm; đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 0%/năm.
Quyết định 1349/QĐ-NHNN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/9 và thay thế Quyết định 1349/QĐ-NHNN ngày 6/8/2020.
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của NHNN về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản.
Hiện tại, tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHNN yêu cầu với các ngân hàng là 3% với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng; 1% với tiền gửi VND kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Với tiền gửi ngoại tệ, tỷ lệ tiền gửi của các ngân hàng ở nước ngoài tối thiểu là 1%. Tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã là 7%, trong khi nhóm tổ chức tín dụng khác là 8%.
Tương tự, tiền gửi ngoại tệ kỳ hạn từ 12 tháng trở lên với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã hiện áp dụng tối thiểu 5%, trong khi các ngân hàng khác phải duy trì ở mức 6%.
Trên lý thuyết, điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc sẽ tác động lớn tới tỷ lệ lạm phát trên thị trường.
Cụ thể, khi muốn kiểm soát lạm phát đang tăng cao, cơ quan quản lý tiền tệ sẽ nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, từ đó khiến khả năng cho vay và thanh toán của các ngân hàng giảm, dẫn tới hoạt động tín dụng giảm, lãi suất tăng, đầu tư giảm và làm lạm phát giảm.
Ngược lại, khi cơ quan quản lý giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và thanh toán của các ngân hàng tăng, dẫn đến tăng tín dụng trong nền kinh tế, tăng cung tiền, giảm lãi suất trên thị trường và tăng lạm phát.
T.H