Đây là mối quan ngại trong năm 2017 trước bối cảnh những cam kết hội nhập từ các hiệp định thương mại tự do (FTA), một mặt tạo ra cơ hội nhưng đồng thời tạo ra nhiều thách thức lớn cho Việt Nam.
Nhìn lại hoạt động NK năm 2016 vừa qua, có thể thấy cơ cấu NK nhóm hàng nguyên, nhiên liệu đầu vào cho sản xuất và tiêu dùng trong nước tiếp tục cao.
Phụ thuộc nguyên liệu nhập
Giới chuyên gia nhận định, vấn đề đầu tiên là tỷ lệ NK lớn về nguyên, nhiên liệu, nhất là nguyên liệu gia công sản xuất, thể hiện tính gia công trong ngành còn lớn, phụ thuộc nhiều vào thị trường cung cấp ở bên ngoài.
Điều đó khiến cho nền kinh tế gặp bất lợi mỗi khi giá cả thế giới biến động tăng, làm tăng chi phí sản xuất trong nước, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu (XK).
Ngay như lĩnh vực sản xuất ôtô, chính ông Takimoto Koji, Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO), trong buổi họp báo ngày 14/2, cũng phàn nàn rằng ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam được xem là nền móng cho các ngành sản xuất ôtô song không hề có tiến triển, tỷ lệ nội địa hóa vẫn còn thấp.
Theo ông Koji, có dấu hiệu cho thấy một số DN trong ngành sản xuất ôtô đang muốn nhập ôtô từ các nước trong khu vực, thay vì NK linh kiện về lắp ráp, sản xuất tại Việt Nam, do lợi nhuận cao hơn.
Vấn đề thứ hai, là NK máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất vẫn tiếp tục cao ở các thị trường có công nghệ và chất lượng hàng hóa mức trung bình, như: Trung Quốc, Đài Loan… Điều này được xem như sẽ gây khó khăn cho Việt Nam về nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất và toàn chuỗi cung ứng.
Số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2016 cho thấy, các mặt hàng NK tăng như máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 28,1 tỷ USD (tăng 1,8%); điện tử, máy tính và linh kiện đạt 27,8 tỷ USD (tăng 20,1%), sắt thép đạt 8 tỷ USD (tăng 7,3%); chất dẻo đạt 6,3 tỷ USD (tăng 5,5%); nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 5,1 tỷ USD (tăng 1,9%).
Trung Quốc vẫn là thị trường NK lớn nhất của nước ta, với kim ngạch đạt 49,8 tỷ USD (tăng 0,5% so với năm 2015); Hàn Quốc đạt 31,7 tỷ USD (tăng 14,6%); ASEAN đạt 23,7 tỷ USD (giảm 0,3%); Nhật Bản đạt gần 15 tỷ USD (tăng 4,3%); EU đạt 11,1 tỷ USD (tăng 6,7%); Hoa Kỳ đạt 8,7 tỷ USD (tăng 11,6%).
Một số mặt hàng có kim ngạch NK lớn từ Trung Quốc gồm: máy móc, thiết bị, phụ tùng; điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; sắt thép các loại; hóa chất…
![]() |
Nhập khẩu máy móc, thiết bị vẫn tiếp tục cao ở các thị trường có công nghệ, chất lượng hàng hóa mức trung bình như Trung Quốc, Đài Loan
“Vùng trũng” của hàng ngoại?
Kim ngạch NK năm 2016 tại thị trường Trung Quốc có giảm mạnh so với năm 2015 nhưng giá trị vẫn cao nhất trong các thị trường NK. NK từ nước này năm 2016 đạt 49,9 tỷ USD, chiếm hơn 28% tổng kim ngạch, tăng khoảng 1% so với năm 2015.
Vấn đề thứ ba, là NK và XK của khối DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng cao hơn so với NK và XK của khối DN trong nước.
Cụ thể, NK của khối DN FDI tăng 5,1%, khối trong nước tăng 4%; XK của khối DN FDI tăng 11,8% (không kể dầu thô), khối trong nước tăng 4,8%. Điều này cho thấy sản xuất của các DN trong nước vẫn còn nhiều khó khăn.
Theo Bộ Công Thương, thông qua kết quả của các FTA và những khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế đã tạo ra mức độ tự do hóa thuế quan của Việt Nam với các đối tác FTA giảm ở mức khá cao. Trong ATIGA đạt khoảng 93%, FTA ASEAN - Trung Quốc 84% số dòng thuế về 0%, FTA ASEAN - Hàn Quốc 78% và FTA ASEAN - Nhật Bản 62%.
Với kết quả của các FTA, thị trường NK tiếp tục được mở rộng, đa dạng hóa, giảm dần sự phụ thuộc vào các thị trường nguyên liệu truyền thống. Hơn nữa, hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế đã góp phần thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại và tạo ra tác động tích cực đến hoạt động xuất NK của Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề đáng quan ngại là sự gia tăng cạnh tranh đối với các DN trong nước do sự gia tăng nhanh chóng nguồn hàng NK từ các nước bởi giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, cũng như sự gia tăng của các nhà cung cấp nước ngoài nhờ mở cửa thị trường dịch vụ.
Thực tế, các DN FDI chiếm khoảng 17% thị phần bán lẻ qua trung tâm thương mại, siêu thị; khoảng 70% thị phần bán lẻ qua cửa hàng tiện lợi; khoảng 15% thị phần của phương thức bán hàng qua siêu thị mini; và khoảng 50% thị phần bán lẻ không thông qua cửa hàng (bán hàng trực tuyến qua Internet, truyền hình, điện thoại...).
Đáng lo nhất, như nhận định của Bộ Công Thương, là việc gia tăng nguy cơ không kiểm soát được hàng hóa NK bởi các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng.
Vì vậy, Bộ Công Thương cho rằng, cần tiếp tục triển khai các biện pháp quản lý NK đối với một số mặt hàng trong nước đã sản xuất được và hàng tiêu dùng không khuyến khích NK thông qua các biện pháp kỹ thuật như: TBT, SPS, nguồn gốc xuất xứ, phòng vệ thương mại...
Thế Vinh