Không ít nhà đầu tư cá nhân đắn đo lựa chọn giữa kênh đầu tư trái phiếu hay gửi tiết kiệm tại ngân hàng. |
Giới chuyên gia cũng cảnh báo nhà đầu tư vẫn còn rủi ro khi mua trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vì Nghị định 153/2020 nêu rõ trách nhiệm của nhà đầu tư phải tiếp cận và hiểu rõ đầy đủ nội dung, điều khoản trước khi quyết định mua hoặc giao dịch trái phiếu, tự đánh giá và chịu trách nhiệm về các rủi ro phát sinh.
Đắn đo gửi tiết kiệm
Anh Đỗ Cao Hưng, đường Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội kể rằng, một người bạn làm tại công ty bất động sản khuyên nên rút tiền tiết kiệm để mua TPDN vì với khoản tiền tiết kiệm 1 tỷ đồng mà gửi ngân hàng lãi suất cao nhất chỉ 6,5%/năm, trong khi lãi suất TPDN vẫn duy trì ở mức cao 12%/năm.
“Người này tư vấn, mua TPDN không khác gì gửi tiết kiệm ngân hàng, được đảm bảo trả cả gốc lẫn lãi. Đầu tư vốn vào TPDN mang lại hiệu quả hơn gấp 1,5-2 lần so với gửi tiết kiệm”, anh Hưng cho hay.
Gần đây, không ít khách hàng có khoản tiền gửi tiết kiệm lớn, đến kỳ tất toán, đều băn khoăn việc nên tiếp tục gửi tiết kiệm hay mua TPDN vì có lãi suất cao hơn hẳn.
Theo chứng khoán BVSC, lãi suất trung bình 6 tháng và 12 tháng của toàn ngành ngân hàng đang ở mức 4,85%/năm và 5,69%/năm, cùng giảm xấp xỉ 1,5% so với cùng kỳ 2020 và gần như đi ngang so với tháng trước đó.
Điều bất ngờ là dù lãi suất huy động trên thị trường đang ở mức thấp, nhưng sản phẩm trái phiếu đang được các doanh nghiệp phát hành trả lãi suất rất cao từ từ 10,5-12%/năm.
Cụ thể theo thông báo của chứng khoán BVSC, trong kỳ tính lãi đầu năm 2021, TPDN của Công ty Cổ phần Thủy điện Nậm Pung được tính lãi suất 12%/năm. Tương tự, TPDN của Công ty sản xuất thép Úc SSE trong kỳ tính lãi đầu năm 2021 cũng được tính lãi suất lên tới 11,5%/năm.
Chứng khoán Vndirect cũng vừa chốt danh sách để thanh toán lãi trái phiếu do Công ty Cổ phần đầu tư phát triển bất động sản Thế kỷ và Công ty cổ phần năng lượng Bắc Hà với cùng mức lãi suất là 10,5%/năm.
Hiện tại, nhiều DN vẫn đẩy mạnh việc tiếp cận các nhà đầu tư cá nhân để phát hành trái phiếu riêng lẻ với những lời mời chào đầy hấp dẫn. Trong khi đó, rất nhiều nhà đầu tư cá nhân chỉ nhìn thấy lãi suất TPDN hấp dẫn hơn lãi suất gửi tiết kiệm mà không cân nhắc kỹ mọi vấn đề.
Nhà đầu tư cẩn trọng
Theo Bộ Tài chính, trong năm 2020, khối lượng phát hành trái phiếu tại thị trường trong nước tăng 29% so với năm 2019 đạt khoảng 430.000 tỷ đồng, trong đó: phát hành riêng lẻ chiếm 93,4% tổng khối lượng phát hành, tăng 30,4% so với năm 2019; phát hành ra công chúng tăng 33% so với năm 2019
Trong đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) và công ty bất động sản vẫn là 2 loại hình có giá trị phát hành trái phiếu lớn nhất trên thị trường.
Theo đánh giá của các chuyên gia, sau khi có xu hướng hạ nhiệt do tác động của Nghị định 81/2020/NĐ-CP siết lại điều kiện phát hành, thị trường TPDN năm 2021 lại được tạo cơ hội thông qua Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán TPDN ra thị trường quốc tế.
Trước sự sôi động của thị trường, các chuyên gia cảnh báo, nhà đầu tư cá nhân không nên mạo hiểm chỉ nhìn vào lãi suất để đầu tư trái phiếu vì rủi ro cao.
Theo Luật sư Trương Thanh Đức, đặc thù của TPDN là công cụ nợ, do DN phát hành theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn. Khả năng trả nợ của DN lại phụ thuộc rất lớn vào tình hình tài chính và kết quả kinh doanh.
Trong năm vừa qua, nhiều DN bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 kinh doanh thua lỗ nhưng vẫn đẩy mạnh huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Thực tế, có không ít DN phát hành trái phiếu, chưa hẳn là huy động vốn để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư của mình, có khi chỉ để cơ cấu lại các khoản nợ. Kênh đầu tư này khác với tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng và chỉ phù hợp với nhà đầu tư chuyên nghiệp, có khả năng phân tích và đánh giá rủi ro.
Các chuyên gia kinh tế cho hay, trong bối cảnh hiện nay, việc một số DN phát hành trái phiếu với lãi suất từ 12%/năm trở lên được coi là cao. Trong nhóm những DN bất động sản đang có nhu cầu phát hành trái phiếu lớn với lãi suất cao, nhiều DN có cấu trúc nợ trên vốn không cân đối, lịch sử tín dụng có vấn đề, kinh doanh không khả thi, vay vốn không minh bạch.
Thanh Hoa