Theo các chuyên gia, khác với cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, các ngân hàng đã vững vàng hơn trong cuộc khủng hoảng dịch bệnh Covid-19. Trong bối cảnh khó khăn, nhiều ngân hàng vẫn tăng trưởng tốt.
Sức đề kháng với khủng hoảng đã tốt hơn
Nhiều ngân hàng gần đây đã công bố kết quả lợi nhuận quý II/2021 với những con số ấn tượng, bất chấp dịch Covid-19 quay trở lại lần thứ 4 với tác động mạnh hơn nhiều so với 3 lần trước đó. Chẳng hạn, MSB ghi nhận lợi nhuận trước thuế 3.119 tỷ đồng, gấp 3 lần so với cùng kỳ 2020, tương đương 95% kế hoạch năm. VIB cũng ghi nhận lợi nhuận 6 tháng đầu năm tăng 68%; HDBank ghi nhận lợi nhuận trước thuế 6 tháng đạt 4.193 tỷ đồng, tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2020...
Mức độ lành mạnh của hệ thống ngân hàng ngày càng được củng cố. |
Theo ông Lý Hoài Văn, Phó Tổng giám đốc OCB, hệ thống tài chính, các ngân hàng trong 2 năm vừa qua hoạt động tốt nhờ 4 yếu tố.
Thứ nhất là sự khác nhau giữa khủng hoảng dịch bệnh với khủng hoảng tài chính năm 2008-2009. Mức tác động là khác nhau.
Trong cuộc khủng hoảng cách đây hơn một thập kỷ, thị trường gần như mất thanh khoản, rủi ro về đối tác ảnh hưởng lớn đến thanh khoản toàn ngành ngân hàng. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng lần này, hệ thống tài chính vẫn đang hoạt động tốt nhờ chính sách của ngân hàng trung ương can thiệp kịp thời hỗ trợ nền kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp.
Thứ hai, trong 2 năm vừa qua, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng khả quan với GDP tăng trên 6%, lạm phát, tỷ giá và lãi suất được duy trì ổn định giúp ngành ngân hàng hoạt động tốt.
Thứ ba, sau cuộc khủng hoảng 2008-2009, ngành ngân hàng đã đi qua giai đoạn cơ cấu 5 năm lần thứ nhất và đã đáp ứng được năng lực tài chính, đặc biệt các tổ chức tín dụng (TCTD) đã nâng cao năng lực quản trị, nhất là về vốn, qua đó tăng hệ số an toàn vốn (CAR) và đáp ứng chuẩn Basel II.
Thứ tư, các ngân hàng đã mở rộng các sản phẩm dịch vụ, đa dạng hóa nguồn thu. Trước đây, thu tín dụng trên 90% thì đến nay các ngân hàng đã giảm được sự phụ thuộc vào tín dụng, gia tăng nguồn thu từ ngoài lãi như thu phí bảo hiểm, bảo lãnh, thu xếp hợp vốn, giấy tờ có giá...
Thực tế, các khoản thu từ phí dịch vụ vẫn là nguồn đóng góp lớn vào tổng lợi nhuận của các ngân hàng trong quý II/2021; trong đó có sự gia tăng đột biến về số khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong thời gian dịch bệnh cũng như thu nhập bán chéo dịch vụ bảo hiểm (bancassurance)... Bên cạnh đó, thu nhập từ kinh doanh chứng khoán, ngoại hối… tăng mạnh.
Lợi nhuận gắn chặt với trích lập dự phòng
Đánh giá về mức độ lành mạnh của hệ thống tài chính, ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối ngoại hối, Thị trường vốn và Dịch vụ chứng khoán - Ngân hàng HSBC Việt Nam cho rằng, các ngân hàng đã tập trung đầu tư công nghệ, kỹ thuật số, thanh toán online. Không chỉ cá nhân mà các doanh nghiệp cũng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng nhiều hơn.
Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, phần lớn các doanh nghiệp không đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, thay vào đó để tiền trong tài khoản phòng ngừa, giúp tăng tiền gửi không kỳ hạn (CASA) trong “túi” các nhà băng, dẫn đến chi phí vốn giảm, hỗ trợ thu nhập từ lãi tăng do lãi biên (NIM) giãn ra, thúc đẩy lợi nhuận của các ngân hàng.
Ngoài ra, việc xử lý nợ xấu hiệu quả những năm vừa qua đã tạo luân chuyển vốn, tăng lãi bất thường cho các ngân hàng. Việc xử lý nợ xấu được đẩy nhanh, phần lớn các ngân hàng đã xử lý được nợ xấu bán cho VAMC, giúp nâng cao nền tảng của ngân hàng tốt hơn.
Thêm nữa, Thông tư 01 và 03 về việc giãn trích lập nợ xấu do ảnh hưởng bởi Covid-19 góp phần giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng. “Khi sức khoẻ ngân hàng vững vàng trong cuộc khủng hoảng dịch bệnh và đạt được mức tăng trưởng tốt sẽ có thêm nhiều dư địa hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn”, ông Khoa cho hay.
Cụ thể, gần đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các ngân hàng đã bắt đầu thanh toán cho nhau những khoản mà NHNN mua ngoại tệ khoảng vài tỷ USD tương ứng tiền đồng sẽ được bơm thêm vào hệ thống. Các ngân hàng sẽ hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp thông qua các hoạt động cho vay.
Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng, lợi nhuận của ngân hàng phần lớn phụ thuộc vào trích lập dự phòng rủi ro. Năm 2020, trước diễn biến bất lợi của dịch Covid-19, NHNN cho phép các ngân hàng không chuyển nhóm nợ, giảm áp lực trích lập dự phòng và đẩy cao lợi nhuận. Chính sách này tiếp tục kéo dài sang năm nay nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp và ngân hàng.
Vì vậy, đánh giá lợi nhuận của ngân hàng thời điểm này phải đặt trong bối cảnh trích lập dự phòng. Thông tư 03 được NHNN ban hành mới đây có thể đã giúp các ngân hàng có kết quả "đẹp" hơn rất nhiều nhờ việc sắp xếp phân loại lại nợ, các ngân hàng được giảm trích lập dự phòng. Nhưng đây chỉ là giải pháp ngắn hạn. Một ẩn số quan trọng cần phải xem xét là biến động doanh thu ròng từ lãi tăng - giảm như thế nào trong các ngân hàng thương mại. Đây là một cách để kiểm soát và phát hiện nợ xấu, vì nợ xấu thì thường không có khả năng trả lãi.
Huyền Anh