Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mới đây đã ban hành Thông tư số 14/2021/NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020 về việc gia hạn thời hạn trả nợ đối với những khoản nợ bị tác động bởi Covid-19, đồng thời cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) trích lập dự phòng cần thiết đối với các khoản nợ này trong thời hạn 3 năm. Thông tư 14 đã có hiệu lực từ ngày 7/9/2021.
MBKE cho rằng, bộ đệm dự phòng rủi ro ở các ngân hàng đang cao hơn nhiều nên sẽ không có cú sốc về nợ xấu trong thời gian tới. |
Theo đánh giá của Công ty chứng khoán Maybank Kim Eng (MBKE), đây là động thái hợp lý nhằm hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp vay vốn trong nước trước những bất ổn của tình hình Covid-19.
Đối với các ngân hàng nói riêng, Thông tư này cho phép ngân hàng quản lý gánh nặng trích lập dự phòng, bởi ngân hàng có thể cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khoản vay bị ảnh hưởng bởi đại dịch mà không cần thay đổi nhóm nợ đối với các khoản vay này, đồng thời ngân hàng có thể dàn trải dự phòng cho các khoản vay nhóm 2-4 (nhóm dư nợ cần chú ý) trên 3 năm.
Xét đến nền tảng nợ xấu thấp của các ngân hàng Việt Nam hiện tại và bộ đệm dự phòng rủi ro hiện đã cao hơn nhờ sự hỗ trợ bởi quy định giãn nợ của Thông tư 14 sẽ giúp các ngân hàng không có cú sốc về tỷ lệ trích lập dự phòng, phí suất tín dụng trong nửa sau 2021.
“Điều này sẽ giúp các ngân hàng duy trì tăng trưởng lợi nhuận tích cực trong 6 tháng cuối năm và cả năm 2021 ở mức 32% trong kịch bản cơ sở, theo dự báo của chúng tôi. Thậm chí trong kịch bản xấu, các ngân hàng sẽ vẫn có thể duy trì tăng trưởng tích cực so với năm 2020”, MBKE nhận định.
Vừa qua, đã có nhiều nguồn thông tin về việc lãi phải thu gia tăng trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng dẫn đến những lo ngại về rủi ro nợ xấu và áp lực lên NIM do khả năng các ngân hàng phải xoá bỏ các thu nhập lãi liên quan đến các khoản nợ tái cơ cấu.
Tuy nhiên, theo MBKE, các khoản lãi phải thu tại các ngân hàng hiện nay hầu hết vẫn đang ở mức chấp nhận được, không còn đáng lo ngại như những năm trước 2012. Cũng cần lưu ý rằng các khoản phải thu này còn bao gồm thu nhập lãi từ trái phiếu Chính phủ, đây là khoản không đáng lo ngại.
Về các khoản nợ tái cơ cấu do tác động của dịch Covid-19, Thông tư 01, Thông tư 03 cũng nêu rõ các ngân hàng không được phép ghi nhận thu nhập lãi liên quan đến các khoản nợ tái cơ cấu này, mặc dù các khách vay (của các khoản nợ tái cơ cấu trên) vẫn phải trả lãi.
Thay vào đó, các ngân hàng sẽ tích luỹ các khoản thu nhập lãi đó ngoài bảng cân đối kế toán và sau đó có thể được hạch toán vào báo cáo kết quả kinh doanh khi các khoản nợ tái cơ cấu này được bình thường hóa trên bảng cân đối kế toán.
“Những lo ngại về áp lực lên NIM xuất phát từ việc các khoản lãi phải thu gia tăng đã bị thổi phồng một cách không hợp lý”, MBKE nêu quan điểm.
Theo công ty chứng khoán này, chắc chắn nợ xấu sẽ gia tăng do tình hình dịch Covid-19 kéo dài. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật, khi tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống tăng trên 10% sẽ gây ra rủi ro hệ thống do nợ xấu có thể nhấn chìm toàn bộ vốn của ngân hàng, gây ra những sự cố trong hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng.
Đây là những gì đã xảy ra vào năm 2012 khi tăng trưởng tín dụng của Việt Nam giảm xuống mức thấp nhất lịch sử do các ngân hàng phải tập trung vào việc dọn dẹp nợ xấu và tái cấp vốn cho chính mình. Còn hiện nay, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống sẽ tăng lên mức 7%, vẫn thấp hơn mức rủi ro hệ thống và tỷ lệ nợ xấu năm 2012 là 17,2%.
“Chúng tôi không cho rằng sẽ có cú sốc về phí suất tín dụng do tỷ lệ nợ xấu hiện tại đang ở mức thấp, bộ đệm dự phòng rủi ro hiện đã cao hơn nhiều (đặc biệt ở các ngân hàng lớn) và được hỗ trợ thêm bởi chính sách về giãn nợ và trích lập dự phòng”, MBKE nhận định.
Huyền Anh