Ở xã Bản Xen, có một câu chuyện cửa miệng của người dân nơi đây gọi cây chè là cây “không lo giải cứu”, vì chỉ có giá cao hay thấp chứ chưa bao giờ lo bị ế phải đổi bỏ. Vùng Bản Xen hay bị mưa đá, gió lốc nhưng chè Tuyết San không hề gãy cành, dập lá như loài cây khác.
Làm giàu nhờ tư duy mới
Nhắc đến “vua chè” ở Bản Xen không ai không biết ông Vàng Dỉn Lin, ở thôn Phẳng Tao. Gia đình ông Vàng Dỉn Lin chăm bón theo đúng quy trình kỹ thuật làm chè sạch, chỉ dùng phân hữu cơ, không dùng phân hóa học cho nên đất màu mỡ, cây chè trổ búp to, cho năng suất cao.
Với gần 2 ha chè, mỗi năm vợ chồng ông Lin thu về hàng trăm triệu đồng. Nhờ chè mà 675 trong số 933 hộ dân Bản Sen có việc làm và nguồn thu nhập ổn định, thêm nhiều triệu phú, hộ nông dân sản xuất giỏi, như Nông Văn Trường, Nông Văn Sền, Nguyễn Trung Huy...
Chè đang là cây giảm nghèo, làm giàu cho nông dân Mường Khương. |
Mỗi năm xã có thêm hàng chục hộ thoát nghèo, cả xã hiện chỉ còn dưới 4% số hộ nghèo đa chiều. Cũng nhờ đó mà Bản Xen cùng với Bản Lầu về đích nông thôn mới sớm nhất huyện Mường Khương, từ năm 2015.
Nói đến phong trào phát triển mô hình trồng chè ở xã Bản Xen cũng không thể không nhắc đến anh Trần Văn Hùng, những năm qua đã cùng người dân địa phương đưa sản phẩm chè Shan đi nhiều nước trên thế giới, cùng khát vọng chinh phục những thị trường khó tính nhất.
Thời gian qua, để nâng cao giá trị sản xuất, gia tăng sức mạnh cạnh tranh, anh Hùng đã chủ động tham gia các HTX chè Mường Khương và HTX chè bản Sen, từ đó thiết lập liên kết với các hộ dân, hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc, bao tiêu sản phẩm về chế biến và xuất khẩu.
Hiện tại, anh Hùng cùng các cộng sự trong HTX đã có 2 nhà máy chế biến chè chất lượng cao, công suất 60 tấn/ngày và 40 tấn/ngày. Trước đây khi chưa có nhà máy chế biến, giá chè của người dân chỉ ở mức 4.500-6.000 đồng/kg. Đến nay, chè được phân loại cao nhất là giá 22.000 đồng/kg, tầm trung là 10.000 đồng/kg, đại trà là 7.000-8.000 đồng/kg.
Liên kết để thành công
“Bình quân mỗi tháng, với 2 vụ thu hái thì một ha chè cũng cho sản lượng khoảng 10 tấn, các hộ sản xuất thu về trên dưới 140 triệu đồng. Chúng tôi đang trong tình trạng cung không đủ cầu. Chè xuất sang Trung Quốc và hơn 10 nước Trung Đông cho doanh thu 6 tỷ đồng/tháng”, anh Hùng nhẩm tính.
Trong những năm qua, mô hình liên kết trồng chè do anh Hùng phát động triển khai đã giúp trên 80 hộ thoát nghèo, giải quyết khó khăn về vốn, vật tư, cây con giống, tạo việc làm ổn định cho hơn 100 lao động tại địa phương. Trung bình mỗi ngày còn có khoảng 15 đến 30 lao động thời vụ với mức lương từ 200.000-250.000 đồng/người/ngày.
Cũng là một trong những tỷ phú ở miền biên viễn Mường Khương, chị Nguyễn Thị Hà, người sáng lập HTX Thịnh Phong, thôn Nà Mạ, xã Bản Lầu đang là người tiên phong trong các hoạt động sản xuất tại địa phương. Với chị, để thuyết phục người dân làm theo thì “mình phải thành công trước”.
Vẫn là những vật nuôi, cây trồng quen thuộc tại địa phương, chị Hà đã có những cách làm sáng tạo để nâng cao giá trị sản xuất. Hiện, sản phẩm dứa tươi là mặt hàng chủ lực, thúc đẩy giảm nghèo, làm giàu của thành viên, người lao động HTX.
Mường Khương tiếp tục định hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa, thúc đẩy chuỗi giá trị. |
Bên cạnh 14 hộ thành viên và 25 hộ liên kết trồng dứa, HTX Thịnh Phong còn đứng ra thu mua dứa của người dân trong và ngoài địa bàn xã, nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu cho những đơn hàng lớn. Lúc cao điểm, bình quân mỗi ngày HTX xuất bán ra thị trường hàng chục tấn.
“Sản phẩm dứa tươi của HTX được sơ chế, đóng gói rồi chuyển đi các tỉnh thành khắp cả nước. Để có nguồn nguyên liệu tốt, chúng tôi triển khai 100% diện tích sản xuất theo chuẩn VietGAP, hữu cơ, đồng thời chuyển giao kỹ thuật cho các hộ sản xuất”, chị Hà chia sẻ.
Nhờ có cây dứa, thu nhập của thành viên, nông dân liên kết với HTX ngày càng được nâng cao. Bản thân chị Hà nhờ sự sáng tạo trong sản xuất, chị đang xây dựng thành công trang trại tổng hợp rộng trên 3 ha. Doanh thu bình quân 500-600 triệu đồng/năm.
Cùng với sản phẩm dứa đóng gói, những năm gần đây, khi hàng rào chất lượng xuất khẩu sang Trung Quốc ngày càng khó, chị Hà cùng HTX chuyển hướng chú trọng hơn vào thị trường trong nước, đồng thời định hướng thành viên “xoay trục” sang trồng thêm các cây trồng mới như sắn và ngô.
Sự thích nghi, chuyển đổi linh hoạt theo thị trường đang giúp HTX Thịnh Phong liên tục có bước tiến vững chắc, tạo điểm tựa để chị Hà cùng các thành viên vươn lên làm giàu. Thu nhập bình quân của người lao động HTX hiện đạt 45-80 triệu đồng/năm.
Tạo thế phát triển bền vững
Có thể nói, những chuyển đổi trong quá trình sản xuất nông nghiệp đang giúp đời sống của nông dân Mường Khương ngày càng được nâng lên, đặc biệt là sự xuất hiện của những điển hình sản xuất giỏi trở thành những “tỷ phú chân đất” thứ thiệt.
Với xuất phát điểm thấp, Mường Khương từng là huyện nghèo nhất của tỉnh Lào Cai. Để nâng cao hiệu quả sản xuất, đẩy nhanh xóa đói, giảm nghèo, những năm qua huyện đã thực hiện tập trung vào 5 cây, con chủ lực: Chuối, dứa, chè, kinh tế đồi rừng và phát triển đàn lợn đen bản địa.
Mường Khương hiện có hơn 4.900 ha chè, 1.580 ha chuối, 1.560 ha dứa và 1.170 ha quế; tổng đàn lợn hơn 30 nghìn con, sản lượng 712 tấn lợn thịt thương phẩm mỗi năm, riêng lợn đen chiếm 62% sản lượng. Huyện cũng đã chuyển đổi gần 2.000 ha đất trồng cây kém hiệu quả sang phát triển các cây chủ lực (chè, dứa, chuối, quế).
Cơ cấu cây trồng chuyển đổi theo hướng tăng diện tích cây trồng chủ lực, tiềm năng, có đầu ra ổn định theo chuỗi liên kết, đồng thời phát huy thế mạnh các vùng cây trồng đặc sản; chú trọng quy hoạch, cơ cấu lại vùng sản xuất hàng hóa; tích cực áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, xây dựng thương hiệu, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Toàn huyện thu hút thêm hàng chục dự án đầu tư xây dựng, nâng cấp nhà máy, cơ sở chế biến.
Với những thành tựu vừa qua, Mường Khương đang nằm trong tốp đầu của Lào Cai về tốc độ giảm nghèo bền vững. Thời gian tới, huyện sẽ tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngành trồng trọt theo hướng nâng cao giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích đất canh tác gắn liền với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị.
Minh Khuê