Năm 2001, HTX được hình thành với 36 hộ xã viên. Thời gian đầu còn gặp nhiều khó khăn, một số xã viên chưa thực sự tâm huyết, chung tay dựng xây HTX, sản phẩm chưa có thương hiệu, tiêu thụ hết sức bấp bênh.
Để khắc phục khó khăn, Ban lãnh đạo HTX đã phải đi tới các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh để tiếp thị sản phẩm. Sau đó, nhiều doanh nhân về thu mua chè ở HTX nên nhiều người dân trong vùng đã xin gia nhập HTX, số xã viên tăng lên 72 người.
Tuy nhiên, một thời gian sau, hoạt động cung ứng vật tư nông nghiệp của HTX bị mai một, vốn kinh doanh cũng hạn chế, kỹ thuật trồng, chế biến lại đòi hỏi khắt khe nên một số xã viên đã xin ra khỏi HTX.
Nông dân muốn tham gia HTX
Khó khăn chồng chất, nhưng Ban lãnh đạo và người lao động (NLĐ) của HTX không nản lòng, quyết tìm ra hướng đi để phát triển.
Bước ngoặt đến với HTX đúng vào thời điểm tròn 10 năm tuổi (năm 2011), HTX đã được cấp Chứng nhận UTZ Certified (Chương trình chứng nhận toàn cầu cho hoạt động sản xuất và buôn bán chè có trách nhiệm). Theo chương trình này, tất cả các khâu từ trồng, chăm sóc, thu hái, bảo quản, đóng bao bì... đều theo dây chuyền khép kín. Theo đó, tất cả các sản phẩm của HTX khi sản xuất ra và cung cấp đến người tiêu dùng đều bảo đảm an toàn và đạt chất lượng cao nhất.
Do là đơn vị đầu tiên của tỉnh làm chè theo tiêu chuẩn UTZ nên khởi điểm gặp không ít khó khăn. Bà Đỗ Thị Hiệp - Chủ nhiệm HTX, chia sẻ: Lúc đầu, khi mới thực hiện, thành viên HTX cũng chưa ai hiểu rõ về tiêu chuẩn UTZ. Phải trải qua rất nhiều lần mời chuyên gia về hướng dẫn quy trình sản xuất cho xã viên, những năm sau này, sản xuất mới dần đi vào ổn định.
Sản phẩm của HTX đã có mặt tại 63 tỉnh thành trong nước và xuất khẩu
Hiện HTX có trên 40 thành viên với 22 ha trồng chè. Mỗi năm, HTX cung ứng cho thị trường 65 tấn chè khô cho thị trường cả nước. Sản phẩm của HTX gồm có 3 loại chính: Chè búp đặc biệt, chè tôm nõn và chè đinh. Giá bán trung bình từ 200.000 - 2 triệu đồng/kg. Bình quân 1 ha chè UTZ xã viên sẽ thu lãi 368 triệu đồng/năm. Do giá bán cao hơn, chi phí sản xuất giảm nên lợi nhuận cao hơn 70 triệu đồng/ha, nâng mức thu nhập của NLĐ tăng lên khoảng hơn 20% so với cách làm truyền thống trước đây.
Cũng nhờ sản xuất theo tiêu chuẩn UTZ mà sản phẩm chè của HTX đã đạt được nhiều huy chương vàng tại các kỳ thi chất lượng chè xanh toàn quốc hàng năm, do Hiệp hội Chè Việt Nam tổ chức. Sản phẩm của HTX đã có mặt tại 63 tỉnh thành trong nước và xuất khẩu sang nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Canada, Vương quốc Anh…
Thực hiện đầy đủ quy định ATVSLĐ
Sau một thời gian xây dựng, phát triển, nhờ sản phẩm có thương hiệu nên doanh thu của HTX ngày một tăng cao. Doanh thu từ kinh doanh chè của HTX mỗi năm đạt từ 800 triệu đến 1,2 tỷ đồng. Đời sống của xã viên ngày càng được cải thiện. 80% xã viên HTX có thu nhập khá từ cây chè; không có hộ nghèo. Hiện nhiều nông dân trong vùng có nguyện vọng tham gia HTX.
Theo bà Hiệp, việc sản xuất chè theo tiêu chuẩn UTZ khác xa rất nhiều so với sản xuất VietGAP. Để ra được sản phẩm đạt chuẩn, mỗi xã viên phải tuân thủ hàng trăm quy định theo dây chuyền khép kín.
Sản xuất chè theo tiêu chuẩn UTZ, một mặt vừa hướng dẫn NLĐ sản xuất theo tiêu chuẩn ngặt nghèo, vừa đôn đốc, hướng dẫn NLĐ có kỹ năng thực hành sản xuất tốt, thực hiện đầy đủ các quy định về VSATLĐ, tránh được những rủi ro, nguy cơ do đặc thù của ngành sản xuất chè đem lại.
Việc sản xuất chè theo tiêu chuẩn UTZ cũng giúp cho người nông dân quản lý nương chè, giảm việc sử dụng thuốc BVTV, lạm dụng phân bón, giảm chi phí sản xuất. “Trước đây, khi sản xuất chè người dân muốn bón phân gì, phun thuốc BVTV gì cũng được, giờ phải là loại phân Nhà nước cho phép, thuốc phải kiểm chứng không có độc tố, lại phải ghi chép rõ việc mua thuốc như thế nào, phải giữ lại bao bì thuốc BVTV để khi thanh tra, kiểm tra phải rõ ràng xuất xứ”, bà Hiệp cho biết.
Mỗi sản phẩm của HTX khi xuất hiện trên thị trường đều có thể kiểm tra được từ nguồn gốc đến từng hộ sản xuất thông qua sổ ghi chép của từng hộ. Trong sổ này được ghi chép rõ những việc diễn ra hàng ngày liên quan đến cây chè, như trồng khi nào, chăm sóc, bón phân, phun thuốc, cách chế biến, bảo quản, ký hiệu lô trên bao bì sản phẩm.
Trong quá trình sản xuất chè, cũng phải có cả người và dụng cụ cứu thương được chứng nhận về y tế để chịu trách nhiệm cấp cứu nếu người trồng chè bị nạn. Trẻ em, phụ nữ có thai không được phép phun thuốc BVTV, NLĐ phải được tập huấn.
Ngay cả bóng điện phục vụ việc sao chè cũng phải treo ở nơi an toàn, để nếu có bị rơi vỡ cũng không rơi vào chè. Dụng cụ sao chè cũng quy định phải là tôn inox để tránh bị oxy hóa, han gỉ lẫn vào chè. Việc bảo quản chè, ngoài việc đóng vào bao đúng quy định vệ sinh an toàn còn phải đánh mã lô, số rõ ràng, đúng ngày, tháng, năm để quản lý sản phẩm…
Thu Hường