Ở các quốc gia châu Âu, HTX nông nghiệp là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp. Theo thống kê của một số nhóm nghiên cứu, vào những năm 2000, các nước châu Âu có khoảng 58 nghìn HTX nông nghiệp với 13.800.000 xã viên, tổng doanh thu đạt 265 tỉ đôla. Số lượng HTX nông nghiệp của châu Âu chỉ bằng 1/8 của châu Á, số xã viên chỉ bằng 1/14 của châu Á, nhưng doanh thu cao gấp 2 lần, cho thấy HTX nông nghiệp ở châu Âu chiếm vị trí vô cùng quan trọng do thế mạnh về năng suất sản xuất.
HTX nông nghiệp Châu Âu với những con số biết nói
Nếu so sánh giữa các nước ở khu vực châu Âu về số lượng HTX nông nghiệp, số lượng xã viên và sản lượng, kết quả như sau: nước Đức có số xã viên nhiều nhất, tiếp đến là Áo và Ban Lan. Pháp có số HTX nhiều nhất, tiếp đến là Ba Lan và Italia. Về sản lượng, Pháp đứng đầu, tiếp theo là Đức và Bỉ. Các nước có sản lượng quy tiền đạt trên 10 tỉ đôla gồm Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Italia, Đan Mạch, Airơlen, Thuỵ Điển, tiếp đến các nước đạt sản lượng dưới 10 tỉ đôla gồm có Áo, Anh, Tây Ban Nha, Na Uy, Phần Lan và Thụy sỹ.
Pháp là quốc gia có nhiều HTX nông nghiệp, 3.800 HTX bán - chế biến nông sản và 13.000 HTX dịch vụ nông nghiệp với số xã viên gần 1 triệu người (90% nông dân). Nếu nhìn vào thị phần, HTX nông nghiệp chiếm tỷ lệ thị phần cao trên mọi lĩnh vực, rượu vang 60%, sữa bò 52%, thịt gà 42%, thịt bò 37%, hoa quả 30%, HTX đóng góp khoảng 28% toàn bộ thị phần ngành nông nghiệp và thực phẩm toàn quốc.
Năm 1950, Đức có 23.000 HTX nông nghiệp, nhưng hiện nay được tổ chức lại còn 5.000 HTX, xã viên khoảng gần 5 triệu người. HTX nông nghiệp của Đức được tổ chức theo từng vùng, hầu hết nông dân đều tham gia vào HTX nông nghiệp hay các HTX sản xuất. Hơn nữa các HTX mua bán nông nghiệp lại tham gia vào hơn nửa tổng số kim ngạch mua vào, bán ra của nông dân và sử dụng tới 120.000 lao động.
![]() |
Mô HTX chăn nuôi bò sữa rất nổi tiếng ở Hà Lan. |
Ở Hà Lan, 271 HTX nông nghiệp có 300.000 xã viên và tuyển dụng gần 80.000 lao động. HTX cung cấp sữa bò có thị phần đạt 75%.
Tại Italia, số lượng HTX là 5.235, số lượng xã viên HTX tham gia vào 45% lượng chế biến nông sản.
Tại Thuỵ Sỹ, có 624 HTX nông nghiệp và 70.000 xã viên. Vào năm 1993, do tự do hoá thị trường và để tăng cường sức cạnh tranh, Thụy Sỹ đã hợp nhất 6 Liên hiệp HTX địa phương để tổ chức ra một Liên đoàn HTX duy nhất trên toàn quốc.
Tại Anh hiện nay có 404 HTX nông nghiệp với 253.000 thành viên, năm 2016, doanh số của HTX nông nghiệp đạt 11 tỉ bảng Anh, chiếm tới 80% sản lượng nông nghiệp, chi phối 90% thị phần sữa bò toàn quốc.
Ở Đan Mạch, từ 214 HTX nông nghiệp năm 1991 được sáp nhập thành 127 HTX, HTX nông nghiệp có doanh thu 13 tỉ đôla. Ngày nay, HTX nông nghiệp hoàn toàn chi phối trong các lĩnh vực: chế biến và tiêu thụ sản phẩm sữa bò chiếm 90%, chế biến-bán thịt lợn chiếm 96%.
Thụy Điển có 63 HTX nông nghiệp với 306.000 thành viên và 37.000 lao động nhưng HTX nông nghiệp có hơn 100 công ty con ở trong và ngoài nước, tổng doanh thu đạt hơn 17 tỉ đôla, HTX nông nghiệp giành 57% thị phần ngành sản xuất nông nghiệp và thực phẩm.
Phần Lan có 69 HTX nông nghiệp, 8 HTX thức ăn gia súc đóng góp cho đất nước 80% sản lượng nông nghiệp và chế biến thực phẩm, 95% các sản phẩm từ sữa bò, 68% sản lượng thịt sạch, 50% lượng máy nông nghiệp.
2.896 HTX ở Mỹ có doanh thu 122 tỉ đôla
HTX nông nghiệp ở Mỹ phát triển thông qua bán nông sản, rồi mở rộng sang mua và chế biến thực phẩm. Cho tới trước năm 1936, HTX tham gia chế biến sản phẩm từ sữa bò, bán gia súc và ngũ cốc, tiếp tới là bán hoa quả. Những nhà sản xuất hoa quả ở California tổ chức ra HTX mua bán ở quy mô bang. Họ sử dụng đại bộ phận số hoa quả thu hoạch được để tạo ra những thương hiệu rất riêng như: Cam Sunkist, Mận khô Sunsweet, Nho khô Sunmaid. Vào năm 1930, ở Minnesota và Wisconsin, HTX sản xuất ra hơn nửa thị phần bơ kem, ở Chicago và Philadelphia có tới 70 – 90% lượng sữa bò là do HTX bán ra.
Để hỗ trợ HTX trong sản xuất và tiêu thụ nông sản- thực phẩm, chính phủ thành lập Uỷ ban marketing như là một phương tiện phối hợp định giá nông sản-thực phẩm và khuyến cáo nuôi -trồng nông sản phù hợp nhu cầu của thị trường.
Năm 1994, Mỹ có 4174 HTX nông nghiệp với khoảng 4.000.000 thành viên, doanh thu đạt 89 tỉ đôla nhưng đến năm 2005 các HTX đã sáp nhập lại còn 2.896 HTX và số thành viên cũng giảm còn 2,5 triệu người nhưng doanh thu đạt 122 tỉ đôla, HTX cung cấp 45% lượng phân bón, 42% lượng nhiên liệu, 21% lượng thức ăn gia súc, các sản phẩm từ sữa bò 33%, ngũ cốc và hạt giống dùng ép dầu 27%.
Từng giai đoạn phát triển HTX ở Hàn Quốc
HTX nông nghiệp Hàn Quốc được thành lập theo sáng kiến của chính phủ với mong muốn phát triển kinh tế nông thôn và thúc đẩy tính tự lực, độc lập và hợp tác của nông dân. Chính phủ thành lập Liên đoàn HTX nông nghiệp Hàn Quốc (NACF) trên cơ sở sáp nhập HTX nông nghiệp và ngân hàng nông nghiệp, liên đoàn hướng dẫn và hỗ trợ thành lập HTX thành viên, vì vậy 100% HTX nông nghiệp Hàn Quốc là thành viên của Liên đoàn.
Tại Hàn Quốc, HTX nông nghiệp phát triển phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Trong đó, giai đoạn 1961 – 1968 chủ yếu do chính phủ vận động thành lập HTX để cải thiện đời sống kinh tế - xã hội và thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Mặc dù chính phủ hỗ trợ mọi mặt về kinh phí, đào tạo cán bộ kiến thức và kỹ năng canh tác cho nông dân nhưng cũng là cuộc đấu tranh rất quyết liệt để nâng cao nhận thức cho cộng đồng xã hội về phong trào HTX định hướng theo cơ chế thị trường.
Giai đoạn này, NACF được chính phủ hỗ trợ để điều hành hoạt động kinh doanh thông qua mạng lưới HTX cấp thành phố và thị trấn, đồng thời hướng dẫn HTX cơ sở triển khai các hoạt động giúp nông dân gắn kết với HTX.
Giai đoạn 1961 – 1968 là thời gian tích cực đối với HTX nông nghiệp, nông dân và cộng đồng xã hội nhận thức rõ hơn về vai trò HTX trong cải thiện đời sống kinh tế, và cộng đồng kinh tế đã tin cậy HTX là thành phần kinh tế quan trọng không thể thiếu của đất nước.
Giai đoạn 1969 – 1974, HTX được ưu tiên hợp tác với nhau, sáp nhập và thực hiện nhiều nhiệm vụ hơn để đáp ứng nền kinh tế thị trường. Các HTX mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ kinh tế cho xã viên. Giai đoạn này đánh dấu sự tăng trưởng liên tục của HTX góp phần quan trọng cùng cả nước thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế ở mọi miền đất nước.
Giai đoạn 1975 – 1980, NACF thành lập trung tâm nghiên cứu – thông tin thị trường giúp các HTX thành viên tiêu thụ sản phẩm không những ở Hàn Quốc mà còn ở thị trường nước ngoài.
Giai đoạn 1981 – 1987, NACF có nhiều cải tiến quan trọng như tổ chức lại, hệ thống HTX nông nghịêp chỉ còn 2 cấp: HTX cơ sở và NACF. Các chi nhánh NACF là đơn vị kinh doanh của NACF.
Giai đoạn 1988 – 1993: nhà nước sửa đổi Luật HTX, mở rộng hoạt động kinh doanh của HTX nông nghiệp như hoạt động môi giới bán đất nông nghiệp, hoạt động vận tải và hoạt động ngân hàng của HTX tiêu dùng. Luật cũng huỷ bỏ quy định giới hạn quy mô đầu tư của NACF và huỷ bỏ giới hạn bảo lãnh tín dụng.
Để tăng cường sự gắn kết của xã viên và HTX, từ 1989 NACF ban hành chính sách bảo hiểm cho nông dân – xã viên và cung cấp miễn phí cho xã viên dịch vụ mai táng.
Giai đoạn từ 1995, NACF tập trung nỗ lực phát triển kinh doanh và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho xã viên, tăng cường lợi ích cho xã viên như mở kênh tiết kiệm tạo tài sản cho nông dân, thành lập trung tâm phân phối vật tư nông nghiệp tại nhà cho xã viên...
Từ 1995, NACF chú trọng cải tiến hoạt động ngân hàng, phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, mở nhiều chi nhánh ở các khu vực giầu tiềm năng, tổ chức các chiến dịch tiết kiệm theo chủ đề và khuyến khích các tổ chức nhà nước địa phương gửi vốn ngân sách vào tài khoản của NACF...
Từ năm 2000 đến nay, NACF chú trọng cải tổ hoạt động tiêu thụ nông sản, tổ chức thực hiện 123 dự án Marketing nông nghiệp, xây dựng nhiều khu mua bán nông sản tự động và tiếp quản Liên đoàn HTX chăn nuôi và Liên đoàn HTX nhân sâm Hàn Quốc làm đơn vị thành viên của NACF.
Hiện nay, NACF có 1.383 HTX thành viên, 16 trụ sở cấp vùng, 156 văn phòng cấp tỉnh, 10.000 trung tâm thương mại, 494 chi nhánh và 10 viện đào tạo trên toàn quốc và 4 chi nhánh ở nước ngoài, NACF đã trở thành tổ chức HTX nông nghiệp hùng mạnh vững bước vào thế kỷ 21 với hy vọng xây dựng phong trào HTX đứng đầu thế giới, góp phần xây dựng cộng đồng HTX thịnh vượng cả trong nước và trên thế giới với tiêu chí HTX luôn luôn nỗ lực tối đa hoá lợi ích cho xã viên và xã hội.
HTX Ấn Độ với vai trò then chốt
Chính phủ Ấn Độ giúp đỡ mọi loại hình HTX, cung cấp vốn thành lập, lập 3 cơ quan trực thuộc chính phủ gồm Cơ quan phát triển HTX toàn quốc, Hội đồng phát triển bò sữa toàn quốc, và Ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông thôn toàn quốc. HTX được thành lập ở các vùng nông thôn và đô thị, cơ cấu tổ chức theo ngành dọc ở trung ương và ở cấp địa phương.
![]() |
Chính phủ Ấn Độ rất coi trọng vai trò HTX. |
HTX đầu tiên của Ấn Độ ra đời năm 1904, năm 1912 Chính phủ ban hành luật HTX. Ấn Độ có nhiều loại hình HTX như: HTX nông nghiệp, HTX sản xuất phân bón, HTX sản xuất mía đường, HTX chăn nuôi, HTX nhà ở, HTX y tế, HTX thuỷ sản , HTX du lịch… Hiện nay, Ấn độ có 545.354 HTX với 237 triệu xã viên.
Chính phủ Ấn Độ rất coi trọng vai trò HTX nên ở các HTX, chính phủ góp khoảng 20-25% vốn cổ phần của HTX và cử người tham gia ban quản trị HTX để vừa quản lý vốn vừa định hướng cho HTX hoạt động đúng các chương trình kinh tế xã hội của chính phủ.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Ấn Độ có 200.000 HTX nông nghiệp và 140 triệu xã viên. Thị phần của HTX nông nghiệp đang giữ vai trò then chốt, trong lĩnh vực tín dụng chiếm 42% vốn cho vay nông nghiệp, cung cấp 34% lượng phân bón. Các nông sản như ngũ cốc, bông vải, tiểu mạch chiếm 25%, sữa bò chiếm 64%, HTX mía đường sản xuất 60% tổng sản lượng đường.
Đến nay, Ấn Độ có 92.000 HTX nhà ở với 6,5 triệu xã viên, cung ứng 2,5 triệu căn hộ.
Liên minh HTX quốc gia Ấn độ thành lập năm 1929 với 226 thành viên. Liên minh HTX Ấn Độ có 19 trường đào tạo cán bộ HTX, kinh phí chủ yếu do nhà nước hỗ trợ để đào tạo cán bộ quản lý HTX.
Liên hiệp HTX tiêu dùng Liên bang Nga
Liên hiệp HTX tiêu dùng Liên bang Nga có 6.913 HTX và 250 liên hiệp HTX với 14 triệu xã viên, hơn 500.000 cán bộ nhân viên làm việc trong hệ thống 97.000 cửa hàng HTX, cung cấp hàng tiêu dùng cho khoảng 30% dân số toàn quốc. Liên đoàn có 9.000 đơn vị trực thuộc chuyên sản xuất chế biến thực phẩm, 8.500 đơn vị sản xuất hàng tiêu dùng, 450 xưởng sản xuất bánh mỳ, nước giải khát… Doanh thu năm 2021 đạt 13 tỉ đôla.
Liên hiệp có 3 trường đại học, 37 phân hiệu đại học, 69 trường trung cấp kĩ thuật và 77 trường dạy nghề. Hàng năm, hệ thống đào tạo của Liên hiệp cung cấp 50.000 cán bộ đại học và trung cấp cho các HTX trong toàn quốc và các nhu cầu khác của xã hội
Liên hiệp có bệnh viện đa khoa 250 giường, nhà điều dưỡng 800 giường và bao cấp kinh phí cho cán bộ, xã viên HTX đến khám, chữa bệnh, nghỉ ngơi, điều dưỡng phục hồi sức khoẻ.
HT