PVC-MS vừa công bố kết quả kinh doanh năm 2019 với số lỗ 244,5 tỷ đồng, nâng mức lỗ lũy kế lên 346,6 tỷ đồng, tương đương 57,8% vốn điều lệ.
Kết quả kinh doanh kém sắc
Thực tế, hoạt động kinh doanh của PVC-MS đã liên tục đi xuống từ năm 2016. Doanh thu của công ty từ 1.548,4 tỷ đồng đã giảm xuống chỉ còn 310,3 tỷ đồng vào năm 2019 , giảm gần 80% trong vòng 4 năm.
Tính đến thời điểm 31/12/2019, tổng tài sản của PVC-MS đạt 1.359 tỷ đồng, chủ yếu là tài sản cố định với 564,9 tỷ đồng; giá trị các khoản phải thu là 309,6 tỷ đồng.
Trong đó, khoản phải thu với Ban quản lý Dự án công trình DK1 là 116,7 tỷ đồng, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam 21,3 tỷ đồng, CTCP Lilama 18 là 7,5 tỷ đồng… Tồn kho chủ yếu là chi phí sản xuất - kinh doanh dở dang 363,3 tỷ đồng; riêng giá trị tồn kho ứ đọng, kém chất lượng lên tới 121,9 tỷ đồng.
Nhìn chung, nguyên nhân dẫn đến tình trạng khó khăn của PVC-MS là do liên tiếp phải trích lập giá trị lớn như khấu hao, các khoản phải thu. Bên cạnh đó, giá dầu suy giảm dẫn đến tiến độ đầu tư xây dựng các công trình, dự án bị ảnh hưởng nặng nề.
Trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu PXS cũng đang có diễn biến không mấy khả quan kể từ ngày công bố Báo cáo tài chính năm 2019 đến nay (26/2). Theo đó, thị giá của PXS đã giảm một mạch từ 5.600 đồng/cp xuống còn 3.630 đồng/cp, tương đương gần 35,2%. Nếu so với mức đỉnh của năm 2019 là 6.200 đồng/cp (13/11) thì giá trị của của PXS đã "bốc hơi" hơn 41% chỉ trong 4 tháng.
Chia sẻ thêm về những khó khăn của doanh nghiệp, đại diện của PVC-MS cho biết, tình hình kinh doanh của công ty trong 2 năm 2018 và 2019 liên tục khó khăn khi không có thêm các dự án mới, chi phí lãi vay lớn, khiến kết quả chung là thu không đủ bù chi.
Kết quả kinh doanh thua lỗ, giá cổ phiếu lao dốc nhưng ngoài văn bản giải trình lý do lợi nhuận biến động, đến thời điểm này, ban lãnh đạo công ty vẫn chưa có thêm thông tin vào về tình hình hoạt động – kinh doanh để trấn an cổ đông, nhà đầu tư.
Thực tế, theo quy định hiện hành, nếu doanh nghiệp thua lỗ 3 năm liên tiếp hoặc lỗ lũy kế vượt vốn điều lệ, cổ phiếu sẽ bị hủy niêm yết bắt buộc. Như vậy, tính đến nay, PVC-MS đã có 2 năm lỗ liên tiếp, do đó, nếu không muốn bị hủy niêm yết bắt buộc, công ty phải khắc phục tình trạng thua lỗ trong năm 2020.
Nếu năm 2020, lợi nhuận của PVC-MS không phải là con số dương, cổ phiếu PXS có khả năng cao sẽ phải rời sàn chứng khoán |
Áp lực năm 2020
Cũng theo đại diện của PVC-MS, công ty đang dồn hết nguồn lực cho việc triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2020 với mục tiêu là không để lợi nhuận âm. Hiện, HĐQT công ty đã thông qua kế hoạch kinh doanh năm 2020 với doanh thu dự kiến 850 tỷ đồng và lợi nhuận là một con số dương.
Điểm sáng của công ty là dự án Long Sơn đã bắt đầu thực hiện thi công từ cuối năm 2019, doanh thu mục tiêu cho năm 2020 sẽ chủ yếu từ dự án này. Một số dự án khác như Thái Bình 2, Long Hậu 1 sẽ góp phần mang lại nguồn thu cho công ty.
Biên lợi nhuận gộp của PVC-MS (loại trừ khấu hao) trong những năm gần đây vào khoảng 18%, trong khi những chi phí cố định phát sinh (lãi vay, bán hàng, khấu hao) trong 4 năm qua có xu hướng giảm.
“Từ năm 2020, khi công ty bắt tay vào thi công khối lượng lớn công việc từ dự án Long Sơn sẽ đảm bảo hoạt động cốt lõi có lợi nhuận trong vài năm tiếp theo”, đại diện PVC-MS cho biết.
Nhìn vào đây có thể thấy PVC-MS khá tự tin trong kế hoạch kinh doanh, nhưng hiện nay, ngành dầu khí nói chung đang đối mặt với sự chưa rõ ràng về triển vọng phục hồi, đồng thời dịch bệnh Covid-19 đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới toàn bộ nền kinh tế.
Trong khi đó, mục tiêu lợi nhuận sau thuế năm 2020 là một con số dương của PVC-MS chỉ khả thi nếu công ty hoàn thành kế hoạch doanh thu. Theo đó, hy vọng “thoát lầy” của doanh nghiệp này vẫn còn khá mơ hồ.
Trong phần thuyết minh của một kỳ báo cáo tài chính, PVC-MS đã đưa ra nhìn nhận ngành nghề hoạt động của công ty đang chứa đựng các rủi ro về sự biến động giá thị trường của các loại nguyên vật liệu dùng cho thi công. Những thay đổi về giá nguyên vật liệu thi công có thể ảnh hưởng lớn đến những lợi ích và nghĩa vụ kinh tế của công ty.
Sự thay đổi của thị trường cũng như các chính sách quản lý vĩ mô là rất khó dự đoán, vì vậy ban giám đốc không thể lượng hóa được sự ảnh hưởng của vấn đề này đối với các công trình đang thi công của công ty. Kết quả cuối cùng sẽ chỉ được xác định khi hoàn thành thi công và nghiệm thu bàn giao cho các chủ đầu tư.
Linh Đan