Khai thác được thế mạnh
Huyện Văn Chấn có diện tích chè chiếm 1/3 tổng diện tích chè của tỉnh với hơn 4.680 ha chè các loại, trong đó có 1.300 ha chè Shan tuyết. Tại xã Suối Giàng, chè cổ thụ Shan tuyết hiện khoảng 423 ha, trong đó có 40.000 cây chè Shan tuyết cổ thụ độ tuổi từ 100 năm trở lên. Đây là chè hữu cơ, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học, với sản lượng chè búp tươi hàng năm đạt từ 400 - 500 tấn.
Trước đây, vùng chè Suối Giàng được giao cho một công ty chè của tỉnh quản lý và khai thác, sản phẩm đã có thương hiệu. Nhưng đầu những năm 2000, việc trộn nguyên liệu chè Shan tuyết với chè trung du để tăng sản lượng dẫn đến chất lượng kém, không tiêu thụ được. Giá thu mua chè từ 5.000 đồng/kg giảm xuống còn 1.000 đồng/kg, khiến đồng bào dân tộc Mông nơi đây quay lưng với cây chè.
Năm 2008, HTX Chè Suối Giàng được thành lập, mục tiêu ban đầu là thu mua chè cho đồng bào, không để người dân phá chè trồng ngô.
![]() |
Chị Lâm Thị Kim Thoa, Giám đốc HTX chè Suối Giàng đang trao đổi với các cơ quan chức năng về xây dựng thương hiệu sản phẩm và tạo việc làm cho đồng bào địa phương. |
Chị Lâm Thị Kim Thoa - Giám đốc HTX cho biết, trải qua rất nhiều thăng trầm, số thành viên của HTX đến nay đã tăng lên 15 người, trong đó 85% là người dân tộc Mông. HTX vận động các hộ dân có diện tích thu hái chè gia nhập HTX, thuyết phục các hộ thành viên và người dân trong xã bảo tồn rừng chè cổ thụ Suối Giàng, thu hái chè đúng tiêu chuẩn kỹ thuật.
Tháng 5/2013 nhãn hiệu chè Suối Giàng Yên Bái được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp Giấy chứng nhận cho thương hiệu "Tuyết Sơn Trà”.
“Đến nay, HTX đã có 6 loại sản phẩm mang tên "Tuyết Sơn Trà” có chất lượng tốt, từng bước chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Năm 2019, sản phẩm được UBND tỉnh chứng nhận là sản phẩm OCOP 4 sao. Mỗi năm, người Mông nơi đây thu hái được hơn 500 tấn búp tươi, giá trị hơn 10 tỷ đồng, nhiều hộ làm được nhà mới, mua ti vi, xe máy, đời sống ngày càng nâng lên”, chị Thoa nói.
Trong khi đó, tại huyện Văn Yên, Công ty TNHH Trà thảo mộc Quế Phát do chị Nguyễn Thị Kim Thoa làm Giám đốc chuyên sản xuất các sản phẩm nước lau sàn và nước rửa chén từ tinh dầu quế cũng là một điển hình trong xây dựng sản phẩm OCOP. Ban đầu, Công ty sản xuất trà quế từ hương quế và cỏ ngọt, dùng hỗ trợ điều trị tiểu đường, huyết áp cao, mỡ máu, là thành phần ăn kiêng của người béo phì.
Năm 2019, Công ty chuyển sang sản xuất nước lau sàn và nước rửa chén, là sản phẩm có hương thơm dễ chịu, diệt khuẩn, an toàn cao vì không sử dụng hóa chất, được người tiêu dùng tin tưởng sử dụng. Sản phẩm được UBND tỉnh công nhận đạt 3 sao OCOP, tạo ra việc làm tại chỗ cho 15 công nhân, thu nhập bình quân 6 triệu đồng/người/tháng. Năm 2020, Công ty sản xuất khoảng 100 tấn sản phẩm, doanh thu đạt 1,5 tỷ đồng.
Theo Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Văn Chung, Văn Yên đã xây dựng được 6 chuỗi giá trị, 11 sản phẩm đạt chuẩn OCOP, tập trung vào sản phẩm chủ lực, đặc sản, hữu cơ như cá tầm nước lạnh Nà Hẩu; thuốc tắm người Dao đỏ Viễn Sơn; trà thảo mộc, nước lau sàn Quế Phát…
“Từ các sản phẩm độc đáo trên, người Dao ở Văn Yên có điều kiện làm kinh tế để thoát nghèo, giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa, tỷ lệ hộ nghèo giảm hàng năm bình quân 6,08%, mỗi năm giải quyết được hơn 2.000 việc làm mới”, ông Chung nói.
Đồng hành cùng bà con dân tộc
Tại xã Đào Thịnh, huyện Trấn Yên, sản phẩm quế điếu thuốc đạt sản phẩm OCOP 4 sao, được xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Nhật Bản, Ấn Độ. HTX Quế hồi Việt Nam đã đầu tư cơ sở vật chất, máy móc, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào chế biến, tạo ra 12 loại sản phẩm quế chất lượng cao, với các mặt hàng chủ lực như quế điếu thuốc, quế ống, quế tăm, quế bột, tinh dầu quế… có sức cạnh tranh mạnh và giá bán ổn định.
Để đáp ứng nhu cầu sản xuất, chế biến, HTX xây dựng nhà máy chế biến sản phẩm quế hữu cơ có tổng diện tích trên 14.000 m2, công suất từ 80 - 100 tấn quế tươi/tháng, vốn đầu tư 80 tỷ đồng với dây chuyền máy móc hiện đại thực hiện các khâu chế biến quế. Sau hơn 2 năm liên kết với nông dân, diện tích quế hữu cơ từ 1,5 ha đã tăng lên hơn 500 ha, sản phẩm của người dân được HTX bao tiêu toàn bộ và tăng 20% so với giá thị trường.
![]() |
Gian hàng giới thiệu sản phẩm OCOP của tỉnh Yên Bái thu hút đông đảo khách hàng đến mua sắm. |
Ông Đỗ Nhân Đạo, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Yên Bái trao đổi với phóng viên
Tuy nhiên, chương trình OCOP của Yên Bái còn có nhiều tồn tại và khó khăn. Ông Đỗ Nhân Đạo, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Yên Bái cho rằng, nhận thức của đồng bào các dân tộc nhiều nơi còn hạn chế, nguồn lực phục vụ cho chương trình chưa tương xứng, có nơi chính quyền chưa thấy được lợi thế của sản phẩm đặc trưng vùng miền, thậm chí coi đây là việc của tỉnh, của HTX hay của ngành nông nghiệp.
Vì triển khai muộn, năm 2019, tỉnh mới có 8 sản phẩm OCOP, gồm 3 sản phẩm đạt 4 sao (Tuyết Sơn Trà huyện Văn Chấn, Quế điếu thuốc huyện Trấn Yên, Bưởi Đại Minh huyện Yên Bình); 5 sản phẩm đạt 3 sao (trà Bát tiên huyện Trấn Yên; gạo Séng cù thị xã Nghĩa Lộ; miến đao Giới Phiên, thành phố Yên Bái; nước lau sàn và nước rửa chén, huyện Văn Yên).
Tính đến thời điểm này, toàn tỉnh Yên Bái có 94 sản phẩm đạt chuẩn OCOP, trong đó các HTX có tới 75 sản phẩm. Đây là điều kiện tốt để vừa gắn tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở miền núi, vừa tạo ra các sản phẩm hữu ích, đặc trưng, có giá trị kinh tế cao, đem lại lợi ích cho người dân, cho từng địa phương có lợi thế như cam sành, khoai tím, cá bỗng, gà trống thiến, vịt bầu của Lục Yên; măng tre Bát độ, kén tơ tằm, gạo nếp Tú Lệ, sơn tra, mật ong Mù Cang Chải…
“Tuy nhiên, việc đưa sản phẩm OCOP ra thị trường còn khó khăn trong khâu quảng bá thương hiệu. Một số sản phẩm mẫu mã thiết kế đơn giản, dễ bị làm nhái, làm giả. Về mặt chủ quan, các chủ thể là doanh nghiệp, HTX có sản phẩm công nhận đạt OCOP năng lực tài chính hạn hẹp, vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm nên hiệu quả kinh tế chưa cao, chưa tương xứng và phát huy hết tiềm năng lợi thế của sản phẩm địa phương”, ông Đạo nói.
Để sản phẩm OCOP phát huy hết tiềm năng, lợi thế, ngoài nỗ lực của các chủ thể, chính quyền địa phương và cơ quan chức năng cần kết hợp quảng bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đồng thời phối hợp với việc lồng ghép đưa các sản phẩm OCOP trưng bày, bán tại các điểm du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, các điểm tắm khoáng... Nếu được đồng hành, hỗ trợ, chắc chắn các sản phẩm OCOP của Yên Bái sẽ đem lại nguồn thu nhập lớn cho người dân địa phương, góp phần đẩy nhanh cái nghèo, cái đói lùi xa.
Phạm Duy