Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), trong tháng 6/2016 chỉ xuất khẩu 380.000 tấn gạo, giảm gần 40% so với cùng kỳ năm 2015. Tính cả quý II/2016, Việt Nam xuất khẩu được 1,232 triệu tấn gạo, giảm đến 32% so với cùng kỳ năm 2015.
Giới chuyên gia dự báo, trong 6 tháng cuối năm nay, thị trường tiếp tục ảm đạm khi các nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam như Indonesia và Philippines chưa vội nhập khẩu thêm. Ngay như thị trường tiêu thụ lớn nhất của gạo Việt là Trung Quốc cũng đang chững lại.
Lỗi tại ai?
Từ nay đến cuối năm, như dự đoán, Việt Nam sẽ chỉ xuất khẩu được 3 triệu tấn gạo, giảm 22% so với cùng kỳ. Tính lũy kế cả năm 2016, xuất được 5,65 triệu tấn, giảm 15% so với năm 2015 (chỉ tính xuất chính ngạch). Trong khi đó, Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) ước tính trong năm 2016, Việt Nam có đến gần 7,6 triệu tấn gạo dành cho xuất khẩu.
Với dự báo mới nhất mà VFA đưa ra, áp lực lên thị trường lúa gạo với nông dân sẽ rất lớn và sẽ kéo dài cho tới năm 2017, bởi sản lượng tồn kho của năm nay dự kiến sẽ lên tới 2 triệu tấn.
Nguyên nhân là do xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm giảm 13,3% so với cùng kỳ 2015, chỉ đạt hơn 2,6 triệu tấn. Giá lúa gạo vào thời gian tới có thể có nhiều biến động.Dù kịch bản có như thế nào thì xu hướng chung sẽ là xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ giảm, không còn nhiều như trước đây.
Hẳn là nhiều người sẽ lo lắng về việc này. Nhưng ở một góc nhìn khác, liệu đây là lúc để ngành lúa gạo có cơ hội để thay đổi, không còn phải chạy theo thành tích xuất khẩu gạo như trước đây?
![]() |
Sản lượng gạo tồn kho trong năm nay dự kiến sẽ lên tới 2 triệu tấn
Không ít chuyên gia cho rằng đã đến lúc không cần thiết phải tự hào là cường quốc số 1, số 2 thế giới về xuất khẩu gạo, không cần thiết phải tự hào về danh xưng “Bát cơm châu Á”. Hiện, nông dân trồng lúa ở Việt Nam vẫn là người nghèo nhất và gặp nhiều khó khăn nhất trước những bất cập trong chiến lược sản xuất, xuất khẩu lúa gạo.
Ngay như trong hoạt động của VFA, theo nhóm nghiên cứu của Ts .Nguyễn Đỗ Anh Tuấn và Ts. Nguyễn Trung Kiên (Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn), hiệp hội này vẫn chưa đại diện cho tất cả các tác nhân sản xuất và kinh doanh trong chuỗi giá trị lúa gạo.
Nhóm nghiên cứu này từng cho rằng VFA hoạt động như một cơ quan quản lý ngành hàng nhất là quản lý việc kinh doanh xuất khẩu gạo dựa trên các biện pháp hành chính là chủ yếu. Điều đó đôi lúc đã làm cho thị trường lúa gạo của nước ta bị bóp méo, thiếu sự năng động đối với thị trường trong và ngoài nước.
Trong khi đó, VFA đã bỏ qua một số vai trò mà các hiệp hội ngành hàng phải tham gia như xây dựng chiến lược phát triển ngành hàng, xây dựng và quảng bá thương hiệu, phát triển và ổn định nguồn cung trong nước, mở rộng hội viên theo liên kết dọc nhằm kết nối hợp tác và phát triển theo chuỗi giá trị ngành hàng hiệu quả hơn…
Xóa cũ, làm mới
Theo Ts. Lê Văn Bảnh, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), các thành phần trong chuỗi giá trị lúa gạo gồm nông dân, thương lái, hàng xáo, nhà máy xay chà đánh bóng và các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu gạo chưa liên kết, hỗ trợ lẫn nhau một cách có hiệu quả cùng có lợi.
Ts. Bảnh lưu ý nhiều DN xuất khẩu gạo chưa tham gia liên kết, hợp tác với nông dân xây dựng cánh đồng lớn, vùng nguyên liệu nhằm nâng cao chất lượng của gạo xuất khẩu.
Điều này dẫn đến nghịch lý là nông dân trồng giống lúa chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của thị trường gạo cấp cao nhưng chất lượng gạo xuất khẩu lại thấp do DN thu gom từ nhiều nguồn khác nhau.
Ts. Lê Văn Bảnh đề nghị cần khuyến khích DN tiêu thụ lúa gạo đóng vai trò trung tâm liên kết với nông dân và các DN khác trong tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư đầu vào trên “cánh đồng lớn”, vùng nguyên liệu lúa hàng hóa tập trung, bao tiêu sản phẩm.
Hơn nữa, cần đầu tư xây dựng sàn giao dịch lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng ở vùng ĐBSCL; hỗ trợ đào tạo huấn luyện nông dân để nâng cao tính chuyên nghiệp trong sản xuất lương thực.
Giới chuyên gia khuyến nghị, đã đến lúc xuất khẩu gạo cần “xóa cũ làm mới”, phải hỗ trợ phát triển các hình thức hợp tác sản xuất lương thực trên cơ sở liên kết sản xuất với tiêu thụ. Hình thành Hiệp hội Nông dân sản xuất lương thực. Phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã, công ty cổ phần nông nghiệp…
Mặt khác, cần rà soát, sửa đổi bổ sung các chính sách về thuế đối với các DN chế biến, xuất khẩu lúa gạo, nhập khẩu phân bón phù hợp với diễn biến thị trường thế giới để đảm bảo bình ổn giá trong nước và có tích lũy phòng rủi ro.
Bên cạnh đó, nên khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào lưu thông phân phối lương thực, tạo ra mối liên kết giữa hộ nông dân sản xuất lúa với hộ tiểu thương và người tiêu dùng, thúc đẩy mọi hoạt động của ngành hàng lúa gạo ở Việt Nam.
Nói như Ts. Phạm Nguyên Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, phải rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo theo hướng sản xuất lớn hiện đại với các vùng chuyên canh.
Thế Vinh