Trong vấn đề của DN xuất khẩu cá hồi có tên AMANDA Việt Nam, có thể thấy chuyện gặp trở ngại khi xuất sang Trung Quốc một phần cũng do DN này chưa chủ động nắm rõ thông tin, quy định danh mục các mặt hàng nào không được xuất sang thị trường này. Phần còn lại là do những “hàng rào” từ phía cơ quan quản lý của Trung Quốc với những điều kiện về an toàn thực phẩm.
Còn vướng rào cản
Trên thực tế, để đạt được mục đích xuất khẩu thủy sản chính ngạch sang Trung Quốc, các nhà sản xuất – chế biến thủy sản Việt Nam phải nằm trong danh sách được Trung Quốc công nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm. Hơn nữa, các DN xuất khẩu thủy sản phải được Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Nafiqad) cấp chứng nhận đạt chất lượng xuất khẩu sang Trung Quốc.
Không riêng gì DN nêu trên, nhiều DN trong lĩnh vực nông sản khi xuất chính ngạch sang Trung Quốc thời gian qua đều gặp nhiều khó khăn mà điển hình là mặt hàng thịt lợn. Năm năm trước, Trung Quốc đã bắt đầu dừng nhập khẩu chính ngạch thịt lợn của Việt Nam vì dịch bệnh lở mồm long móng.
Gần đây, Trung Quốc đã đồng ý mở cửa thị trường cho thịt lợn từ Việt Nam xuất khẩu chính ngạch sang nước này. Tuy nhiên, đó là đồng ý về mặt chủ trương, còn để xuất khẩu được thịt lợn sang Trung Quốc, Việt Nam phải xử lý các vấn đề kỹ thuật, kiểm soát dịch bệnh… Theo tính toán, sau khi Trung Quốc đồng ý mở cửa, mỗi năm Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường này 1 – 2 triệu tấn thịt lợn.
Song cũng nên tham khảo dự báo mới đây (tháng 8/2017) của hãng nghiên cứu toàn cầu Ipos Business Consulting (IBC) về triển vọng thị trường thịt lợn Việt Nam thời gian sắp tới. Điều đáng nói, IBC đã không tính đến khả năng xuất khẩu lợn chính ngạch từ Việt Nam đi Trung Quốc. Nếu thỏa thuận thành công, sản lượng xuất khẩu chính ngạch được dự đoán sẽ rất nhỏ.
Xuất khẩu rau quả vẫn còn phụ thuộc lớn vào thị trường Trung Quốc vốn có giá trị thấp, nhiều rủi ro
IBC cho rằng tình hình xuất khẩu lợn hơi theo đường tiểu ngạch sang thị trường Trung Quốc sẽ khó phục hồi như trước đây. Hãng nghiên cứu này còn dự đoán tổng số lợn hơi xuất khẩu theo đường tiểu ngạch vào năm 2018 vẫn giữ ở mức thấp khoảng 2,41 triệu tấn.
Theo đánh giá, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc vẫn tập trung nhiều nhất ở nhóm hàng trung gian (hơn 50%, bao gồm nhiên liệu thô khoáng sản, cao su…), tiêu dùng (khoảng 22%), xăng dầu (khoảng 17%). Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu nói trên không mang lại nhiều lợi nhuận cho phía Việt Nam do không có giá trị gia tăng cao.
Không dễ dàng
Riêng nhóm hàng nông – lâm – thủy sản xuất sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng hơn 20,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng trung gian của Việt Nam. Việc xuất khẩu nhóm hàng này đối mặt nhiều thủ thuật từ phía Trung Quốc về giá cả, thủ thuật thương mại… Thực tế, xuất khẩu nông sản Việt đang phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc và cùng lúc gặp khó khăn khi thương lái Trung Quốc đột ngột ngừng thu mua hoặc ép giá nhằm gây khó khăn và tạo sức ép về kinh tế đối với Việt Nam.
Theo số liệu mới thống kê từ Hiệp hội rau quả Việt Nam, trong 7 tháng đầu năm 2017, kim ngạch xuất khẩu rau quả cả nước đạt hơn 2 tỷ USD, tăng trên 50% so với cùng kỳ năm trước. Điều đáng nói, riêng thị trường Trung Quốc đã chiếm trên 75% kim ngạch xuất khẩu rau quả (1,5 tỷ USD).
Giới chuyên gia lưu ý, rau quả Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào thị trường xuất khẩu Trung Quốc, một thị trường dễ dãi, giá trị thấp song nhiều rủi ro, bất lợi cho nông sản Việt. Trong khi đó, rau quả Việt xuất sang Mỹ, Nhật chỉ chiếm chưa đầy 6% tổng kim ngạch, dù đây là những thị trường có giá trị cao.
Chưa kể, đối với mặt hàng trái cây, chẳng hạn như trái dừa, Trung Quốc từng siết chặt việc xuất khẩu mặt hàng dừa gọt trái và dừa nguyên trái qua biên giới. Có thể thấy, tuy xuất khẩu nông sản Việt vào Trung Quốc có mức tăng trưởng tốt nhưng còn thua xa một số nước ASEAN về xuất khẩu nông sản chính ngạch, có thương hiệu ở thị trường này.
Trong khi Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines đã tận dụng các cơ hội để quảng bá thương hiệu nông sản quốc gia của mình tại thị trường Trung Quốc, nông sản Việt vẫn còn hạn chế, chất lượng chưa đồng đều.
Nhiều loại rau quả của Việt Nam được ưa chuộng tại thị trường Trung Quốc vẫn chưa có tên trong danh mục hàng nhập khẩu của nước này. Hơn nữa, khâu kiểm dịch và thông quan chưa nhanh gọn, hạ tầng kho bãi và đường giao thông còn nhiều khó khăn.
Nhất là với trái cây tươi, chiếm trên 50% nhưng chưa được đóng gói đạt chuẩn và gắn tem nhãn, nguồn gốc xuất xứ. Trong khi đó, phía Trung Quốc ngày càng yêu cầu nghiêm ngặt hơn.
Một lãnh đạo của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn từng cảnh báo thị trường Trung Quốc lâu nay được cho là một thị trường dễ tính nhưng hiện tại, quan niệm này không còn phù hợp nữa. Vì vậy, DN xuất khẩu mặt hàng nông sản cần chú ý nếu không muốn tiếp tục gặp khó khăn.
Theo giới chuyên gia, vấn đề đặt ra trong việc xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc lúc này chính là đòi hỏi các DN Việt phải đạt tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm như với các thị trường khó tính khác. Hơn nữa, các DN cần đa dạng hóa danh mục hàng xuất khẩu và nên tính đến chuyện xây dựng, phát triển sản phẩm mới.
Ngoài ra, khi xuất sang Trung Quốc, các DN nên chú trọng đến bản quyền, thương hiệu sản phẩm Việt. Đồng thời DN cũng cần hạn chế việc kinh doanh chênh lệch giá từ những thương lái Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch.
Thanh Loan