Sáng ngày 24/3, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo "Cải cách kinh tế nhằm bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả trong bối cảnh hội nhập kinh tế và chuyển đổi số ở Việt Nam". Hội thảo được tổ chức trong khung khổ Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam.
Hội thảo "Cải cách kinh tế nhằm bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả trong bối cảnh hội nhập kinh tế và chuyển đổi số ở Việt Nam. |
Bà Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM chia sẻ, chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế trong những thập niên vừa qua đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Những mốc nổi bật như Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ ký kết vào năm 2000 hay việc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007 đều ghi nhận những cam kết quan trọng của Việt Nam đối với hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Gần đây hơn, các hiệp định thương mại tự do quan trọng như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đều có những nội dung quan trọng về bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Theo đó, Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực bổ sung và sửa đổi các luật và văn bản hướng dẫn để thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ và các nội dung liên quan như cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng,...
Dù vậy, bà Minh cho rằng: Một câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có nên sửa đổi theo đúng phạm vi và lộ trình cam kết, hay cần mạnh dạn hơn trong việc sửa đổi để bảo đảm một khung pháp lý đủ ổn định cho bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nội dung này càng quan trọng hơn trong bối cảnh đang có những xu hướng mới về hợp tác quốc tế, đặc biệt là các hiệp định về đối tác kinh tế số,...
Bên cạnh đó, cải cách thể chế cũng cần tạo điều kiện cho việc thúc đẩy chuyển đổi số nhanh, đồng bộ và hiệu quả trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Theo ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Ban Nghiên cứu Tổng hợp CIEM, báo cáo “Cải cách kinh tế nhằm bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả trong bối cảnh hội nhập kinh tế và chuyển đổi số ở Việt Nam” đã rà soát các quy định về sở hữu trí tuệ trong các cam kết quốc tế và văn bản pháp luật của Việt Nam. Các quy định hiện hành của Việt Nam đã cơ bản phù hợp với các quy định về thực thi quyền theo các điều ước quốc tế.
Tuy nhiên, thực trạng thi hành Luật sở hữu trí tuệ phần nào cho thấy sự quan tâm chưa đúng mức của khối doanh nghiệp, các trường đại học và viện nghiên cứu đối với lĩnh vực này. Đơn cử như doanh nghiệp chưa có nhận thức được tầm quan trọng với đăng ký và bảo hộ sở hữu trí tuệ ở nước ngoài nhìn từ vụ của cà phê Trung Nguyên và gạo ST25.
Về xử lý các tranh chấp phát sinh đối với quyền sở hữu trí tuệ, nhiều vụ việc đã được xử phạt hành chính, tập trung chủ yếu ở hàng nhái, hàng giả về nhãn hiệu hoặc vi phạm kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, số tiền xử phạt hành chính tương đối thấp và chưa thực sự đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm luật sở hữu trí tuệ...
Theo đó, trong thời gian tới, ông Dương cho rằng một yêu cầu đặt ra cho sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ là phải giúp tiếp cận, nắm bắt được các xu hướng hội nhập đang diễn ra trên thế giới. Trong đó có xu hướng hợp tác về kinh tế số.
Mặc dù mới hình thành từ năm 2020, các hiệp định hợp tác về kinh tế số đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ các quốc gia. Dù chưa tham gia các hiệp định hợp tác về kinh tế số, Việt Nam cũng cần suy nghĩ đến việc sửa Luật sở hữu trí tuệ theo hướng “đón đầu” xu hướng hợp tác quốc tế này để chủ động có những chuẩn bị cần thiết.
Song song với đó, Việt Nam cần lưu tâm đến bảo vệ cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích xã hội, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với thực tiễn của một nền kinh tế đang phát triển.
Trước thực tế trên, Báo cáo trên đưa ra 04 nhóm kiến nghị chính sách đối với sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể: Thứ nhất, cách tiếp cận đối với việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ cần hướng tới nội luật hóa sớm hơn và cao hơn so với các cam kết quốc tế để tạo động lực cho doanh nghiệp và thích ứng với môi trường chuyển đổi số.
Thứ hai, cần nâng cao năng lực và ý thức bảo hộ Sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (đặc biệt là ở nước ngoài).
Thứ ba, cần vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến trong việc xử lý dân sự các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ để giảm chi phí cho doanh nghiệp và cá nhân.
Thứ tư, cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý sở hữu trí tuệ. Cần tính đến khả năng hợp nhất một số cơ quan quản lý sở hữu trí tuệ, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan này.
Thy Lê