Năm 2030, không chỉ ASEAN, thị trường ô tô Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn cho các trung tâm sản xuất ô tô lớn trên thế giới như Nhật Bản, Mexico, EU...
Sức ép cạnh tranh lớn
Theo số liệu thống kê từ Bộ Công Thương, cả nước hiện có gần 40 doanh nghiệp (DN) sản xuất, lắp ráp ô tô, với tổng công suất lắp ráp thiết kế hơn 680.000 xe/ năm. Dưới tác động tích cực của các chính sách mới mà tiêu biểu là Nghị định số 116/2017/NĐ-CP, nhiều dự án sản xuất, lắp ráp ô tô lớn tại Việt Nam hướng tới thị trường khu vực đã được khởi công và hoàn thành.
Tuy nhiên, sau một thời gian bị chững lại do những quy định của Nghị định 116, các DN nhập khẩu (NK) và sản xuất đã đáp ứng được các yêu cầu của Nghị định này. Theo đó, số lượng ô tô NK về Việt Nam tăng chóng mặt trong thời gian gần đây.
Theo Tổng cục Hải quan, từ đầu năm đến hết tháng 8/2019, cả nước đã chi 2,14 tỷ USD (tương đương gần 50.000 tỷ đồng) NK 95.929 ô tô nguyên chiếc các loại, tăng 232,9% về số lượng và 213,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018. Trong tổng lượng ô tô nguyên chiếc NK 8 tháng đầu năm, xe từ 9 chỗ ngồi trở xuống đạt 71.054 chiếc, tổng trị giá 1,38 tỷ USD, chiếm 74% về sản lượng và gần 64,5% tổng kim ngạch xe nguyên chiếc NK của cả nước.
Về thị trường, Thái Lan tiếp tục ở vị trí dẫn đầu. Tháng 8, Việt Nam nhập 4.266 xe ô tô nguyên chiếc từ Thái Lan và lũy kế từ đầu năm là 56.792 xe, tổng trị giá 1,14 tỷ USD, chiếm hơn 50% tổng số lượng và kim ngạch NK ô tô của cả nước.
Ngoài Thái Lan, thành viên ASEAN khác cũng là thị trường NK ô tô quan trọng hàng đầu của Việt Nam là Indonesia với tổng sản lượng 28.169 xe, tổng kim ngạch gần 393,91 triệu USD.
Theo PGs. Dương Ngọc Khánh, Phó Viện trưởng Viện Cơ khí động lực, Trưởng Bộ môn Ô tô và Xe chuyên dụng (Đại học Bách Khoa Hà Nội), lượng xe NK tăng nhanh tạo thách thức với nhà sản xuất trong nước. Dung lượng thị trường không thay đổi nhiều trong khi xe NK tăng, DN trong nước lại đầu tư thêm. Từ đó, cơ sở sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn.
Ông Toru Kinoshita, Tổng giám đốc Toyota Việt Nam kiêm Chủ tịch Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), nêu ra một loạt khó khăn đối với xe sản xuất trong nước (CKD). Điển hình như: thị trường ô tô của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với Thái Lan và Indonesia (chỉ bằng 1/4 hoặc 1/5), ví dụ sản lượng xe Vios sản xuất tại Việt Nam chỉ bằng 1/8 của Thái Lan. Điều này làm cho chi phí sản xuất tại Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực, đặc biệt là chi phí khấu hao. Do sản lượng còn quá nhỏ, nên các nhà sản xuất phần lớn phải NK các linh kiện CKD để sản xuất ô tô, dẫn đến tốn chi phí rất cao cho việc đóng gói, vận chuyển, thuế NK.
Mặt khác, công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô cũng không phát triển được do sản lượng thấp. Hiện nay, chi phí sản xuất xe ô tô sản xuất tại Việt Nam cao hơn khoảng 10 - 20% so với Thái Lan và Indonesia.
“Từ năm 2018, khi không còn bảo hộ, thuế suất ASEAN của xe NK nguyên chiếc (CBU) về 0% thì xe CKD không thể cạnh tranh được xe CBU. Điều này là rất khó khăn cho các nhà sản xuất ô tô trong việc duy trì sản xuất tại Việt Nam”, ông Toru Kinoshita cho biết.
So sánh ngành công nghiệp ô tô trong khu vực ASEAN |
Chính sách ưu đãi có phải là tất cả?
Hàng rào kỹ thuật hay hàng rào hành chính sẽ không thể là giải pháp hiệu quả và ổn định vì rất khó để hiệu chỉnh và tạo ra một tỷ lệ cân bằng hợp lý giữa xe CKD và xe CBU; cũng như không tạo điều kiện phù hợp để thị trường phát triển lành mạnh, bền vững. Vì vậy, đại diện VAMA cho rằng các giải pháp liên quan đến chính sách thuế nên được triển khai để tạo ra sức cạnh tranh cho xe sản xuất trong nước về dài hạn (khi mà ảnh hưởng của Nghị định 116 sẽ dần mất hiệu quả).
Cụ thể, VAMA kiến nghị chính sách về ưu đãi thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) nên bảo hộ vừa đủ cho xe CKD để có thể cạnh tranh được với xe CBU; bình đẳng về cơ hội được hưởng ưu đãi cho tất cả các nhà sản xuất xe; không tạo ra mức biến động lớn trên thị trường, ví dụ như tâm lý chờ đợi của khách hàng khi có thông tin thay đổi thuế...
Bên cạnh đó, liên quan tới phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô, VAMA cho rằng Chính phủ nên có ưu đãi đầu tư để cho các nhà sản xuất và nhà cung cấp có thể đầu tư máy móc, khuôn và đồ gá, nhằm nội địa hóa linh kiện, qua đó giúp giảm bớt tác động bất lợi của quy mô sản lượng thấp…
Đại diện CTCP Tập đoàn Thành Công kiến nghị Chính phủ không tính thuế NK nguyên liệu, vật tư, linh kiện phụ để sản xuất linh kiện nội địa hóa trong nước. Đồng thời, điều chỉnh thuế TTĐB cho phần giá trị nội địa hóa ô tô để hưởng ưu đãi theo hàm lượng giá trị tạo ra trong nước và giá trị linh kiện nội địa hóa.
Đồng thời, áp dụng các gói tín dụng dành cho phát triển ngành CNHT, cũng như đưa sản phẩm ô tô vào danh mục “Sản phẩm công nghệ cao” được khuyến khích phát triển.
Trước thực trạng của ngành công nghiệp ô tô, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng cho biết Bộ Công Thương đang phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu, đề xuất Chính phủ về chính sách cho vay ưu đãi để người tiêu dùng có thể mua ô tô trong nước nhằm kích cầu tiêu dùng cho ngành sản xuất ô tô nội địa, theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia.
Đặc biệt, Bộ Công Thương báo cáo Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, hoàn thiện các chính sách thuế và phí hợp lý nhằm giúp các DN sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước nâng cao tỷ lệ giá trị nội địa, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh với xe NK nguyên chiếc; trong đó đặc biệt là nghiên cứu sửa đổi áp dụng mức thuế TTĐB đối với mặt hàng ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống theo hướng không đánh thuế TTĐB đối với phần giá trị tạo ra trong nước, với thời hạn của chính sách là 5 - 10 năm. Đồng thời, đề xuất chính sách không áp dụng thuế TTĐB với ô tô điện, ô tô thân thiện với môi trường.
Ở góc độ chuyên gia, PGs. Dương Ngọc Khánh nêu quan điểm việc chính sách ưu đãi cho các DN là rất cần thiết, nhưng nếu phải lựa chọn, ông sẽ chọn giải pháp phát triển dung lượng thị trường.
Ông Khánh lý giải: để phát triển, các DN kỳ vọng số lượng tiêu thụ cần 50.000 đến 100.000 xe thì mới đủ để đầu tư. Tuy nhiên, lượng xe 9 chỗ trở xuống tiêu thụ trên thị trường chỉ bán được chưa đến 30.000. Vì vậy, nếu để lựa chọn thì dung lượng là yếu tố rất quan trọng.
Theo ông Phạm Vũ Hải, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), nói về chất lượng, để sản xuất công nghiệp ô tô toàn cầu phải đáp ứng tiêu chuẩn ISO... Tuy nhiên, rất ít công ty ở Việt Nam đạt được chứng chỉ này. Vì vậy, cần thay đổi nhận thức để các DN tự chuẩn bị, sau khi có chứng nhận này thì DN mới mong đi được ra thị trường quốc tế.
Các chuyên gia khuyến nghị các DN nên dành tiền cho đầu tư nghiên cứu và phát triển để tạo ra các thương hiệu xe hơi “made in Vietnam”. Đồng thời, khi bán sản phẩm cần có dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt, có như vậy thì người tiêu dùng mới yên tâm lựa chọn sản phẩm trong nước.
Lê Thúy
Phó Thủ tướng Chính phủ - Trịnh Đình Dũng Công nghiệp ô tô là ngành tạo giá trị gia tăng cao, nhiều việc làm. Chúng ta có 100 triệu dân thì không thể chỉ NK ô tô về tiêu thụ. Chính phủ sẽ xem xét các kiến nghị của các nhà sản xuất, tạo dư địa cho DN trong nước tăng nội địa hóa, phát triển CNHT. Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - Nguyễn Thị Tuệ Anh Các DN khi đầu tư vào ngành ô tô cần phải được hưởng chính sách hỗ trợ. Đây là điều kiện giúp các DN có thể tồn tại và cạnh tranh trong thời gian tới khi quy mô thị trường lớn lên, nhu cầu cung ứng trong nước nhiều hơn. Chủ tịch VAMA - Toru Kinoshita Một quốc gia có dân số lớn như Việt Nam cần phải hỗ trợ và phát triển ngành công nghiệp sản xuất xe ô tô, vì giúp đất nước phát triển với tốc độ nhanh chóng và lan tỏa khi ngành này là điều kiện cần cho một nền CNHT và mạng lưới dịch vụ rộng lớn. Ngành công nghiệp sản xuất xe ô tô giúp tạo ra một cơ sở vững chắc cho sự phát triển các ngành công nghiệp sản xuất nói chung và tạo thêm nhiều công ăn việc làm. |