![]() |
Ông Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT |
Nhìn lại một năm đã qua, ngành nông nghiệp đang triển khai kế hoạch “thay chất” ra sao và kết quả đến giờ này như thế nào, thưa Bộ trưởng?
Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2018 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018, Bộ đã chủ động xây dựng phương án tăng trưởng ngành cho từng quý và cả năm theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới, đồng thời đã xác định cụ thể các giải pháp thực hiện cho từng lĩnh vực và phân giao nhiệm vụ cho các đơn vị để tập trung thực hiện.
Nhờ vậy, toàn ngành đã đạt và vượt 5/5 mục tiêu kế hoạch đề ra; trong đó có một số chỉ tiêu hoàn thành xuất sắc như tăng trưởng ngành, kim ngạch xuất khẩu, xây dựng nông thôn mới và thu hút doanh nghiệp (DN) đầu tư vào ngành, chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện hơn.
Cụ thể là: tốc độ tăng trưởng GDP ngành đạt 3,05%; giá trị sản xuất toàn ngành năm 2018 tăng 3,8%; kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt trên 40 tỷ USD…
Cơ cấu sản xuất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng chuyển từ mục tiêu số lượng sang chất lượng và giá trị gia tăng; chuyển từ sản xuất quy mô nhỏ lẻ, phân khúc sang quy mô lớn, khép kín theo chuỗi giá trị; từ dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và lao động giá rẻ sang chủ yếu là dựa vào khoa học công nghệ và đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, quản lý; chuyển sản xuất không chỉ dựa vào lợi thế, tiềm năng mà theo sát nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm bằng tiêu chuẩn, quy chuẩn.
Cơ cấu ngành hàng, sản phẩm có sự thay đổi rõ nét, tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như: thủy sản (nhất là tôm nước lợ, cá tra); rau, hoa, quả nhiệt đới; một số loại cây công nghiệp giá trị cao; đồ gỗ và lâm đặc sản. Đồng thời, giảm các ngành hàng, sản phẩm đang có xu hướng tăng cung; tăng tỷ trọng hàng chất lượng cao trong tổng sản lượng sản xuất và hàng xuất khẩu.
Kết quả trên phản ánh sự nỗ lực to lớn của toàn ngành trong thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, cộng với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, sự vào cuộc quyết liệt của các địa phương và các thành phần kinh tế, nhất là lực lượng DN, HTX và người nông dân trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Bộ NN&PTNT xác định phát triển nông nghiệp công nghệ cao là hướng đi của ngành. Vậy, Bộ trưởng có nhìn nhận như thế nào về vai trò của kinh tế hợp tác trong việc xây dựng chuỗi liên kết?
Phát triển khu vực kinh tế hợp tác, trong đó nòng cốt HTX là nhu cầu rất bức thiết khi sức sản xuất hiện nay của ngành nông nghiệp rất lớn. Riêng khả năng sản xuất thực phẩm một năm có thể đạt 5,5 triệu tấn thịt các loại, 30 triệu tấn rau và hoa quả, 45 triệu tấn lương thực và hàng triệu tấn cà phê…
Những điều đó cho thấy sức sản xuất rất lớn nhưng một điểm yếu là liên kết rời rạc, tách rời khâu sản xuất, chế biến, tổ chức thị trường. Điều đó dẫn đến hiệu quả cuối cùng rất thấp, nông dân và DN đều bấp bênh, không tiêu thụ được sản phẩm, cho nên liên kết với nhau là một nhu cầu khách quan.
Không thể liên kết 8,6 triệu hộ nông dân với DN. Vì vậy, chúng ta phải có mô hình HTX là đại diện cho từng thành viên, nông dân liên kết với nhau trên cơ sở tự nguyện, cùng có lợi. Liên kết để tạo thành sức mạnh lớn hơn để đấu tranh, bảo vệ, để các dịch vụ đầu vào ở mức giá hợp lý và thấp nhất.
Còn đối với đầu ra, khi có hợp sức mới hình thành khu nông nghiệp tập trung, có giá phù hợp nhất cho người sản xuất.
Đồng thời, thông qua những dạng hình này để “5 nhà” tổ chức tư vấn thực hiện lồng ghép vào HTX, chứ không thể cùng lúc đi tư vấn cho 8,6 triệu hộ nông dân.
Do đó, việc tổ chức hình thành HTX trong nông nghiệp là yêu cầu khách quan, bức thiết lúc này. Nếu làm được điều đó, chuỗi giá trị nông sản sẽ tăng lên nhiều và nông nghiệp Việt Nam sẽ bước sang giai đoạn mới, tiếp tục có bước bứt phá, phát triển theo chiều hướng hội nhập sâu rộng vào toàn cầu và làm nên kỳ tích.
Trên thực tế đã có nhiều mô hình thành công như ở Bắc Giang năm nay có vụ vải bội thu với tổng giá trị lên đến 6.000 tỷ đồng. Ở những mô hình HTX kiểu mới, giá vải cao gấp rưỡi – gấp đôi bình thường và tiêu thụ hết. Hay như HTX nhãn lồng Nễ Châu (Hưng Yên) với quy mô 20ha không đủ hàng để bán, giá tăng gấp rưỡi.
Thông qua những mô hình HTX kiểu mới để xây dựng chuỗi giá trị, ứng dụng khoa học công nghệ, có truy xuất nguồn gốc, đảm bảo chữ tín, áp dụng các hình thức từ chăm sóc, quản trị, bảo vệ, xúc tiến thương mại. Nếu HTX làm đúng nghĩa theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, chắc chắn mô hình này sẽ trở thành một thành tố quan trọng trong tái cơ cấu nông nghiệp.
![]() |
HTX là thành tố quan trọng trong tái cơ cấu nông nghiệp |
Bộ trưởng khẳng định HTX là thành tố quan trọng trong tái cơ cấu nông nghiệp. Vậy, Bộ đã và đang có những giải pháp nào để đẩy mạnh phát triển các mô hình HTX kiểu mới với hiệu quả cao hơn?
Để thúc đẩy HTX kiểu mới phát triển nhanh, trở thành nhân tố liên kết trong tổ chức sản xuất nông nghiệp, nhất là tái cơ cấu nông nghiệp, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có rất nhiều chủ trương, chính sách.
Vừa qua, Chính phủ ban hành Nghị định 98 về tổ chức hợp tác liên kết, cùng với đó là Quyết định 461 về đề án phát triển 15.000 HTX, liên hiệp HTX hoạt động hiệu quả từ nay đến năm 2020.
Thực hiện chủ trương đó, Bộ đã cùng với Liên minh HTX Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam có chương trình tổ chức, phối hợp hành động toàn diện.
Cụ thể, chương trình bao gồm những nội dung lớn: Một là từ nay đến 2020 phải củng cố hoàn thiện 6.400 HTX vừa có nhưng còn yếu. Hai là, đến 2020, thành lập 5.200 HTX đúng nghĩa HTX kiểu mới. Ba là, củng cố 12.000 HTX đã hoạt động tốt nhưng phải nâng cao hơn nữa.
Quan trọng hơn, trong phát triển HTX là chất lượng. Từ 15.000 HTX này phải trở thành hạt nhân để liên kết với các DN. Đồng trục 8,6 triệu hộ nông dân, HTX, DN thành chuỗi khép kín bao gồm cả khu vực tổ chức sản xuất, vùng nguyên liệu để hoàn chỉnh chu trình khép kín.
Đảm bảo mục tiêu chuỗi giá trị ngành hàng nông nghiệp sâu rộng và chúng ta mới có điều kiện tham gia sâu, hội nhập quốc tế, đưa nông sản Việt Nam đi quốc tế và phục vụ tốt nhất cho thị trường gần 100 triệu dân.
Đồng thời, các HTX sẽ thành lập trong thời gian tới đây phải khẳng định yếu tố then chốt là chuyển nhận thức tự thân của người sản xuất muốn hình thành HTX đó. HTX mới khác ngày trước ở chỗ không phải là HTX hành chính mà là một mô hình quản lý, HTX chỉ làm những khâu khó nhất và những khâu mà từng thành viên làm không hiệu quả.
Còn hộ thành viên vẫn là trụ cột, người quyết định đến hiệu quả cuối cùng của HTX. Do đó, hiệu quả của HTX gồm hai phần: một là phần dịch vụ của HTX, làm tối ưu hóa các khâu cho các thành viên, xã viên; hai là hiệu quả của từng thành viên. Đây mới là vấn đề lớn và là mục tiêu của chúng ta.
Lê Thúy thực hiện