Tại buổi họp báo chuyên đề thông tin về Chính sách cho vay lại từ nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi của Chính phủ và cho vay lại chịu rủi ro tín dụng, ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết: “Trong giai đoạn 10 năm trở lại đây (2005 – 2015), tổng số vốn ODA, vay ưu đãi được ký kết đạt khoảng 45 tỷ USD. Trong tổng số vốn dành cho chương trình, dự án của địa phương, tỷ trọng vốn cấp phát chiếm 92,2%; cho vay lại chỉ chiếm 7,8%.
“Vốn cho vay lại trong các chương trình lớn, cơ bản Nhà nước chịu rủi ro hoàn toàn và đi vay về với điều kiện bao nhiêu thì cho vay lại dự án về cơ bản giống điều kiện, rủi ro tiền tệ, tỷ giá thì Nhà nước chịu”, ông Long cho hay.
Xây dựng cơ chế bậc thang
Báo cáo của Bộ Tài chính cho biết, hiện nguồn vốn ODA đang được chia đều: 1/3 cho ngân sách trung ương để cấp phát cho các chương trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của Ngân sách trung ương; 1/3 dành cho các chương trình, dự án của địa phương và 1/3 để cho vay lại các dự án trọng điểm của Nhà nước.
Những năm qua, nền kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn. Khả năng các thành phần kinh tế tham gia đầu tư lĩnh vực hạ tầng hạn chế. Trong bối cảnh đó, các Tổ chức tài chính quốc tế và các nước song phương đã hỗ trợ nguồn vốn ODA với nhiều ưu đãi cho Việt Nam.
Trước năm 2010, nguồn vốn ODA cho Việt Nam vay có thời hạn 30 – 40 năm, chi phí vay dưới 1%. Bởi vậy, Nhà nước đặt ra cơ chế huy động nguồn lực vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: giao thông, cầu, cảng, hàng không, năng lượng, cấp thoát nước; môi trường, biến đổi khí hậu; vấn đề dân sinh, xóa đói, giảm nghèo…
Đến nay, nguồn vốn ODA đã mang lại hiệu quả thiết thực, làm thay đổi mạo của đất nước, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đã thay đổi căn bản. Song Bộ Tài chính cũng cho biết, cơ chế sử dụng vốn chủ yếu dựa vào cấp phát từ ngân sách nhà nước và Nhà nước chịu rủi ro toàn bộ như hiện nay đặt ra nhiều vấn đề.
Trước hết, đó là đầu tư dàn trải, chưa thực hiệu quả; tình trạng chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư còn không ít.
Thứ hai, tính hợp lý trong phân bổ nguồn vốn giữa các địa bàn còn bất cập. Mức độ tiếp cận nguồn vốn của các địa phương miền núi, khó khăn thường hạn chế hơn các tỉnh, thành phố lớn.
Thứ ba, việc duy trì cơ chế mang tính bao cấp từ phía Trung ương trong thời gian dài đã tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, chưa thực sự khuyến khích các chủ đầu sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả.
Hiện nay, nguồn vốn ODA thường được rót về các thành phố ở những dự án lớn, trong khi các địa phương nghèo còn gặp nhiều khó khăn, cần nhiều các dự án, công trình an sinh xã hội hơn thì ít được tiếp cận nguồn vốn ODA và nếu có chỉ là những công trình nhỏ, công trình dân sinh.
Sự bất cập trên cũng được lãnh đạo Bộ Tài chính thừa nhận: Cách phân bổ nguồn vốn ODA hiện nay còn nhiều bất cập nên Nhà nước phải tính lại, tập trung vốn vào những điểm cần quan tâm và tỉnh nghèo, còn những thành phố lớn có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt thì phải chia sẻ với Trung ương.
Nhằm giải quyết những bất cập trên, có ý kiến cho rằng Nhà nước nên đặt ra cơ chế bậc thang để địa phương khó khăn vẫn có thể tiếp cận nguồn vốn ODA nhiều hơn.
Ví dụ, các tỉnh khó khăn nhất, cần trợ cấp nhiều nhất thì áp dụng cơ chế tỷ lệ cho vay lại 10% gần với tỷ lệ hiện tại là 8%. Địa phương khá hơn chút thì ở mức 20%. Địa phương khác sát với ngưỡng đủ cân đối thì 30%. Tức là nhóm trên thì áp dụng cơ chế 50-50, tức là Nhà nước hỗ trợ 50, địa phương vay 50. Đối với các thành phố lớn như Hà Nội và Tp. HCM thì áp dụng tỷ lệ 80-20, Nhà nước hỗ trợ 20%, địa phương vay lại 80%.
|
Vốn cho vay lại trong các chương trình lớn, cơ bản Nhà nước chịu rủi ro về tiền tệ, tỷ giá.
Lãi suất vay ODA tăng lên 3,5%
Theo lộ trình, tháng 7/2017, Ngân hàng Thế giới (WB) sẽ chấm dứt ODA với Việt Nam, phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên 2% – 3,5%.
Theo ông Trương Hùng Long, nhằm tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 02/CT-TTg trong đó có nội dung tăng cường cho vay lại chính quyền địa phương và cho vay lại chịu rủi ro tín dụng thông qua cơ quan cho vay lại đối với nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ.
Theo ông Long, đối với cho vay lại chính quyền địa phương, tỷ lệ cho vay lại được xác định theo điều kiện của nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi.
Có ý kiến lo ngại rằng việc Nhà nước sử dụng nguồn vốn ODA để cho ngân hàng thương mại vay lại sẽ khiến lãi suất tăng. Tuy nhiên, một số chuyên gia kinh tế khẳng định, theo nguyên tắc, các dự án đó có khả năng hoàn trả, đảm bảo yếu tố luật tổ chức tín dụng.
Về nguyên tắc, các khoản vay này đã được xác lập, tức là nằm trong danh mục đầu tư được Chính phủ thông qua và được các nhà tài trợ cân nhắc việc đồng ý cho vay, NHTM chỉ có vai trò là thực hiện cho vay theo địa chỉ có sẵn, chứ không phải tự chọn dự án để đầu tư.
Mặt khác, ngân hàng vẫn phải chịu rủi ro một phần theo từng loại dự án, mức độ của các dự án này. Ngân hàng chỉ được cộng chi phí liên quan tăng thêm trong khung để đảm bảo kiểm soát.
Hơn nữa, việc chuyển dần sang cơ chế thương mại là để có dự án khả thi và ngân hàng được tiếp cận với dự án ngay từ đầu để cùng đánh giá tính khả thi của dự án.
Tỷ lệ chịu rủi ro tín dụng của cơ quan cho vay lại đối với cho vay lại vốn ODA, trường hợp dự án thuộc danh mục ngành, lĩnh vực hưởng mức lãi suất ưu đãi khi vay lại nguồn vốn vay ODA của Chính phủ Quyết định số 29/2011/QĐ-TTg ngày 1/6/2011 tối đa 30%, trường hợp dự án không thuộc Danh mục này tối thiểu 30%; đối với cho vay lại vốn ưu đãi, tối thiểu 50%.
Mức chênh lệch lãi suất mà các Cơ quan cho vay lại hưởng tương ứng các tỷ lệ chịu rủi ro tín dụng nêu trên là tối đa 0,3%/năm, 0,5%/năm, 1%/năm./.
Thanh Hoa
|
Ông Nguyễn Xuân Phúc - Phó Thủ tướng Chính Phủ Bội chi ngân sách nhà nước năm 2015 ở mức 256 nghìn tỷ đồng, bằng mức đã được Quốc hội cho phép, trong đó bao gồm 30 nghìn tỷ đồng tăng thêm vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài. Tổng thu ngân sách nhà nước không đủ bảo đảm nguồn chi thường xuyên và trả nợ. Toàn bộ chi đầu tư đều phải dựa vào nguồn vay nợ của Chính phủ. Nợ công tăng, áp lực trả nợ lớn. Bà Vũ Thị Mai - Thứ trưởng Bộ Tài Chính Đối với công tác huy động, phân bổ sử dụng vốn vay nước ngoài, trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình, nguồn vốn ODA ngày càng giảm dần. Từ đầu năm 2015 tới nay, đã đàm phán, ký kết 43 Hiệp định vay ODA, vay ưu đãi từ các đối tác phát triển với tổng giá trị đạt trên 4.000 triệu USD gồm: Vay theo điều kiện ODA là 3.450 triệu USD và vay theo điều kiện ưu đãi là 550 triệu USD. Trong số vốn vay đã đàm phán, ký kết, phần sử dụng để cấp phát cho các chương trình, dự án đầu tư không có khả năng hoàn vốn thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước là 2.040 triệu USD, vay về cho vay lại 1.960 triệu USD. Ông Trương Hùng Long - Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại Hiện, Việt Nam đang có khoản vay từ nguồn vốn ODA dài nhất là đến năm 2055. Tuy nhiên, thời gian tới áp lực trả nợ nhanh tăng lên gấp đôi. Thời điểm trả nợ nhiều nhất là khoảng từ năm 2022 đến 2025. Việt Nam đang có chương trình làm việc với WB đàm phán phương án hạn chế tác động trả nợ nhanh tới ngân sách nhà nước và chủ dự án. |