Điển hình mới nhất chính là bản dự thảo cuối về Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 12607:2019 - Quy phạm thực hành sản xuất nước mắm, đang khiến cho các doanh nghiệp (DN) nước mắm truyền thống hoang mang lo lắng là họ có thể sẽ bị xoá sổ, làng nghề sẽ bị "chết" vì khó đáp ứng những quy tắc mới đầy khắt khe và bất cập.
Làm khó doanh nghiệp
Nói thêm về vấn đề này, bà Hồ Kim Liên, Chủ tịch Hội Nước mắm Phú Quốc, cho rằng nếu bản dự thảo cuối được đưa ra để ký ban hành thì nên tạm dừng lại và phải tổ chức lại việc lấy ý kiến từ các DN. Cũng cần phải đặt câu hỏi ngược lại là dự thảo TCVN 12607:2019 dành cho ai?
Bà Liên nhắc lại sự "đảo ngược 180 độ" khi ban hành Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 5107:2018 về nước mắm hồi năm ngoái về việc thay thế TCVN 5107:2003 dù trước đó đã lấy ý kiến từ các DN nước mắm truyền thống.
Và điều mà bà Liên băn khoăn lo lắng là tại sao phía cơ quan nhà nước bỏ ra chi phí để lấy ý kiến rộng rãi của các nhà sản xuất nước mắm về dự thảo Tiêu chuẩn quốc gia về nước mắm nhưng khi ban hành thì lại khác biệt với những ý kiến đóng góp?
Có thể thấy, việc đưa ra những dự thảo chính sách với tư duy hạn hẹp, bất cập, không sát với thực tế hoặc có thể tạo ra những khó khăn, phát sinh nhiều hệ luỵ cho DN, thậm chí còn có dấu hiệu lợi ích nhóm vẫn là vấn đề đáng lưu tâm hiện nay.
Như hồi tháng 10 năm ngoái, khi nghe râm ran đang có một dự thảo đưa ngưỡng histamine dưới 400 ppm/lít vào quy chuẩn nước mắm, bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội DN hàng Việt Nam chất lượng cao, có than thở là nếu ban hành quy chuẩn theo dự thảo như vậy thì xem ra "kiếp nạn" của nước mắm truyền thống vẫn còn dài!
Nước mắm truyền thống làm bằng cá thì có đạm, đạm càng cao thì histamine càng vượt ngưỡng 400 ppm/ lít. Chỉ có nước mắm công nghiệp là không có hay có rất ít histamine.
Trong việc góp ý vào các dự thảo chính sách hiện nay (như dự thảo về thông tư, nghị định hoặc dự thảo luật), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) được đánh giá là một trong những đơn vị có sự đóng góp ý kiến phản biện khá tích cực nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng hơn cho DN.
Mới đây nhất là việc góp ý của VCCI đối với Dự thảo Thông tư quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới. Chẳng hạn trong vấn đề triển khai xây dựng đơn vị đăng kiểm, Điều 13 của Dự thảo quy định "trước khi xây dựng đơn vị đăng kiểm thì tổ chức thành lập đơn vị đăng kiểm phải thông báo với Cục Đăng kiểm về vị trí và thời gian xây dựng, sau đó phải đợi Cục Đăng kiểm thông báo mã số đơn vị và phải thông báo cho Cục khi có sự thay đổi thông tin đã thông báo".
Doanh nghiệp sợ chính sách liên tục thay đổi |
Mang tính giấy phép con
Nhận định về điều này, VCCI cho rằng: Đây là một thủ tục hành chính mang tính giấy phép con. Thủ tục này không được quy định trong Luật Giao thông đường bộ cũng như Nghị định 139. Như vậy, quy định này đã vi phạm Điều 14 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thậm chí, ở Điều 13.1.a của dự thảo thông tư này lại yêu cầu DN phải báo cáo cả về nguồn gốc, mục đích sử dụng đất phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo VCCI, quy định trên dẫn đến việc Cục Đăng kiểm sẽ giám sát cả vấn đề quản lý đất đai của DN. Việc này thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý đất đai, chứ không thuộc thẩm quyền của Cục Đăng kiểm.
"Dự thảo cũng không có quy định về thời hạn giải quyết thủ tục hành chính này, không đáp ứng các quy định về kiểm soát thủ tục hành chính tại Nghị định 63/2010/ NĐ-CP (được sửa đổi bởi Nghị định 92/2017/NĐ- CP)", VCCI lưu ý.
Trao đổi với Thời báo Kinh Doanh, giám đốc một DN trong ngành thực phẩm có tâm sự rằng một trong những nỗi ám ảnh thường trực của giới DN là không lường trước được sự thay đổi về mặt chính sách có thể gây rủi ro, bất lợi cho họ khi thực thi.
"Mà ở đó những bản dự thảo chính sách như là một chỉ dấu báo trước. Thậm chí, từ một dự thảo vẫn còn gây vướng mắc trong DN cho đến khi chính thức ban hành vẫn giữ nguyên như trong dự thảo, dẫn đến việc DN gặp khó khăn hơn", vị giám đốc này chia sẻ.
Cần nhắc thêm, trong kết quả khảo sát thực trạng hoạt động của các DN Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam năm 2018 được Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) công bố mới đây cũng cho thấy một trong năm hạng mục rủi ro về môi trường đầu tư tại Việt Nam của DN Nhật chính là hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vận hành thiếu minh bạch.
Có đến hơn 48% DN Nhật khi được hỏi ý kiến đã lưu ý vấn đề này, nhất là thiếu sự nghiên cứu trước về các nội dung pháp luật (như quy chế nhập khẩu máy móc cũ, bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người nước ngoài, vấn đề môi trường…).
DN Nhật cũng phàn nàn về sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết về thi hành luật, dẫn đến ảnh hưởng tới công việc và thiếu thống nhất trong nội dung thực thi và luật.
Thế Vinh