Lo ngại về mức tăng lương tối thiểu (LTT) quá nhanh, Ts. Nguyễn Đức Thành, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), đã thốt lên: “Việt Nam là nước duy nhất tăng lương cao hơn nhiều năng suất lao động (NSLĐ), như vậy là từ từ ăn mòn sức cạnh tranh của DN Việt. Vì vậy, điều chỉnh LTT cần phù hợp với các điều kiện tăng trưởng về năng suất, không nên coi LTT như công cụ bảo trợ cho xã hội thuần túy”.
DN “đuối sức” cạnh tranh
Để làm rõ mối quan hệ của tiền lương và NSLĐ ở Việt Nam, VEPR vừa công bố báo cáo Tiền lương và NSLĐ. Kết quả cho thấy, trong hơn một thập kỷ qua, LTT đã tăng liên tục, với tốc độ khá nhanh tại Việt Nam.
Mặc dù NSLĐ của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước láng giềng nhưng mức tăng LTT đã làm gia tăng mối lo ngại về khả năng cạnh tranh của các DN nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
VEPR nhận định, LTT tăng ở mức trung bình hằng năm đạt hai con số trong giai đoạn 2007 – 2015, vượt xa tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và chỉ số giá tiêu dùng.
Cũng trong giai đoạn này, tốc độ tăng LTT cao hơn tốc độ tăng NSLĐ. Cụ thể, tỷ lệ LTT trên NSLĐ tăng nhanh, từ 25% năm 2007 đạt mức 50% năm 2015. Xu hướng này không giống như các quốc gia khác như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan.
“Khoảng cách giữa tăng trưởng LTT và tăng NSLĐ ở Việt Nam đã dãn rộng nhanh hơn so với các quốc gia khác”, ông Thành nhận định.
Nhóm nghiên cứu VEPR đã chỉ ra rằng việc LTT tăng nhanh đang làm giảm động lực của nhà đầu tư, lợi nhuận của DN và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng LTT dẫn đến tăng lương trung bình, giảm việc làm và giảm lợi nhuận.
Trung bình LTT tăng 1% có thể khiến lương trung bình tăng 0,32% và lao động giảm 0,13%. Ngoài ra, khi LTT tăng 100%, tỷ lệ lợi nhuận đo bằng lợi nhuận trên doanh thu sẽ giảm 2,3 điểm phần trăm.
Phân tích cụ thể hơn về lợi nhuận của DN bị ảnh hưởng khi LTT tăng nhanh, nhóm nghiên cứu đánh giá, khu vực tư nhân chịu những tác động tiêu cực đáng kể từ tăng LTT. Cụ thể, khi LTT tăng 100%, tỷ lệ lợi nhuận có khả năng giảm 3,25 điểm phần trăm.
Ông Thành cho rằng: “Điều này cho thấy chính sách điều chỉnh tiền LTT nhanh và liên tục có thể làm giảm tốc độ tích lũy tư bản của khu vực DN tư nhân, khiến khu vực này tăng trưởng chậm lại”.
Ngoài ra, phân tích ở mức độ DN với trọng tâm là các DN tư nhân và FDI trong những ngành chế biến – chế tạo đã chỉ ra, tăng LTT làm giảm việc làm trong tất cả ngành công nghiệp. DN có quy mô lớn hơn (thể hiện qua số lượng lao động nhiều hơn), việc cắt giảm việc làm nhiều hơn.
Về đầu tư máy móc, khi mức LTT tăng, các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt may, sản phẩm gỗ và nội thất có xu hướng thay thế lao động bằng máy móc, trong khi các ngành công nghiệp thâm dụng vốn như điện tử và sản xuất máy móc lại giảm đầu tư máy móc.
![]() |
Khoảng cách giữa tăng LTT và tăng NSLĐ ở Việt Nam đã dãn rộng nhanh hơn so với các quốc gia khác
Như vậy, DN chỉ tiếp tục mở rộng sản xuất và đầu tư vào máy móc để thay thế lao động trong những ngành Việt Nam đang có lợi thế so sánh tĩnh. Còn với một số ngành quan trọng khác, DN có thể không muốn mở rộng vì lo ngại giá lao động sẽ tiếp tục tăng trong tương lai và như vậy sẽ mất lợi thế so sánh.
Trước quan điểm nếu chuyển sang phát triển nhu cầu nội địa cần tăng lương và thu nhập cho người lao động để tiêu thụ sản phẩm trong nước, Ts. Nguyễn Tiến Dũng, Viện VEPR, cho rằng các DN xuất khẩu hiện nay đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, xuất khẩu chiếm 80% GDP.
Phải tăng NSLĐ trước
“Tuy nhiên, các DN trong khu vực này cho biết LTT tăng, họ không thể chuyển vào chi phí sản xuất vì sản phẩm một khi bị “đội giá” sẽ không cạnh tranh được với thị trường quốc tế do giá sản phẩm cao hơn. Do đó, không còn cách nào khác là phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động”, ông Dũng nhận định.
Trước những tác động nêu trên của việc tăng LTT, đại diện cho phía người lao động, ông Mai Đức Chính, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nêu quan điểm: Báo cáo của VEPR khẳng định tốc độ tăng tiền lương của Việt Nam tăng nhiều lần so với năng suất.
“Vậy NSLĐ là loại năng suất nào, nếu lấy 4,4% là NSLĐ xã hội. Việc đánh giá tiền LTT ở khu vực công nghiệp mà lại so sánh với NSLĐ xã hội là khập khiễng”, ông Chính đặt vấn đề.
Theo ông Chính, hiện đang có nhầm lẫn LTT và tốc độ tăng LTT. Cách tính tiền LTT của chúng ta vừa qua đang có vấn đề. LTT hiện nay không đủ sống. Khảo sát của Hội đồng Tiền Lương, Tổng Liên đoàn Lao động hay Tổng cục Thống kê… đều cho thấy, LTT đang phải lùi mức tăng nhiều lần, dẫn tới người lao động vẫn chưa đủ sống.
Về phía chuyên gia, ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, cho rằng cần làm rõ tác động của việc tăng lương đến tăng năng suất như thế nào.
“Chúng ta vẫn nói, tăng lương tăng năng suất, nhưng tác động cụ thể tới năng suất như thế nào. Nếu cứ nói tăng LTT để người dân đủ sống. Tôi cho rằng có tăng lên 50% cũng không đủ sống”, ông Tuyển phản biện.
Đồng thời ông Tuyển đặt vấn đề, tại sao chúng ta không nghiên cứu để lương là thỏa thuận giữa người lao động và DN. DN cạnh tranh được, họ sẽ tăng lương cho NLĐ, còn NLĐ có kỹ năng, DN buộc phải tăng lương. “Nếu bỏ tư tưởng tăng LTT với tính cách là công cụ bảo trợ đi thì thị trường lao động sẽ khác”, ông Tuyển nói.
Trong khi đó, bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế, dẫn lại thông điệp trong Báo cáo Việt Nam 2035 của Ngân hàng Thế giới cho thấy, trong bốn mối lo lớn của Việt Nam về dài hạn, NSLĐ thấp và suy giảm là mối lo số một. Vì vậy, tiền lương phải phục vụ tăng NSLĐ mà không thể tách rời.
Theo bà Lan, hiện nay cả ba khu vực kinh tế (nhà nước, tư nhân và FDI) đều có NSLĐ thấp, kể cả FDI cũng thấp so với các nước có mức đầu tư nước ngoài tương quan. Chia theo giai đoạn, giai đoạn 2006 – 2010, NSLĐ tăng 5,3% nhưng 5 năm tiếp theo mức tăng chỉ 3%.
Thẳng thắn mà nói, mức tăng NSLĐ trước năm 2010 cao chủ yếu là do chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp năng suất thấp sang công nghiệp dịch vụ. Nhưng sau này, năng suất nội bộ của các ngành này đều bị giảm, không tăng được. Bản thân công nghiệp và dịch vụ là ngành được kỳ vọng NSLĐ cao nhưng vẫn bị nghẽn.
“Lương tăng không đi cùng năng suất sẽ làm nghẽn NSLĐ. Thực tế chứng minh trong ngành chế biến, dù lương tăng nhưng năng suất cũng không tăng”, bà Lan nói.
Do đó, theo bà Lan, NSLĐ không tăng cũng không có lý do tăng LTT như vừa rồi, vì nhiều khi còn gây hiệu ứng ngược kìm hãm năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam. “Tôi ám ảnh mỗi khi tiền lương tăng lên nhưng DN lại thẳng tay cắt giảm lao động”, bà Lan thẳng thắn nói.
Lê Thúy
Gs. Kenichi Ohno - Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản (GRIPS) LTT chắc chắn sẽ tác động đến đầu tư, tăng trưởng, lợi nhuận của DN. Vì vậy, phải có cơ chế xác định LTT dựa trên nguyên tắc chuẩn mực, có sự tham gia của các chuyên gia độc lập phù hợp với sự gia tăng của NSLĐ. Không nên coi chính sách LTT đơn thuần là chính sách phúc lợi xã hội. Và đặc biệt, nên có cơ quan là viện nghiên cứu thường xuyên theo dõi, đánh giá tác động của LTT. Ts. Lương Minh Huân - Phó Viện trưởng Viện Phát triển DN, VCCI DN tư nhân là đối tượng bị ảnh hưởng nhất khi LTT tăng nhanh. Tăng LTT là đúng nhưng quan trọng nhất là tăng bao nhiêu để phù hợp. Trên thực tế, năm 2012, khi LTT có sự thay đổi quá cao đã ảnh hưởng tới tình hình hoạt động của DN. Ts. Lưu Bích Hồ - Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triển (Bộ KH&ĐT) Suốt 10 năm qua, nghịch lý vẫn là lương phải bảo đảm đáp ứng nhu cầu tối thiểu do tăng giá, lạm phát chứ không phải do tăng NSLĐ. Nếu nhìn lâu dài, không thể để tình hình như bây giờ vì lạm phát đã kìm được nên chúng ta cần đảm bảo tăng NSLĐ cao hơn tiền lương. |