Đó là chia sẻ của bà Bùi Thị Hạnh Hiếu, Tổng Giám đốc CTCP Chế biến và Kinh doanh nông sản Bảo Minh, về những khó khăn, trăn trở của doanh nghiệp (DN) này khi sản xuất, kinh doanh gạo hữu cơ, gạo đặc sản.
Doanh nghiệp sợ bị bẻ kèo
Theo Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu (XK) gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030 đã được Chính phủ phê duyệt, mục tiêu tổng quát trong giai đoạn 2017 – 2020, lượng gạo XK hang năm sẽ giảm còn khoảng 4,5- 5 triệu tấn nhưng vẫn đạt giá trị 2,2 – 2,3 tỷ USD, giai đoạn 2020 – 2030 sẽ giảm sản lượng xuống 4 triệu tấn nhưng giá trị sẽ đạt khoảng 2,3 – 2,5 tỷ USD.
Đến năm 2020, sẽ điều chỉnh sản lượng gạo trắng cấp thấp và trung bình còn dưới 20%, gạo trắng cấp cao khoảng 25%, nâng tỷ lệ gạo thơm, gạo đặc sản, gạo Japonica lên 30%, gạo nếp 20% và các sản phẩm gạo có tỷ lệ gia tăng khác chiếm khoảng 5%.
Đến năm 2030 sẽ giảm gạo trắng cấp thấp, trung bình còn 10%, gạo trắng phẩm cấp cao 15% và nâng tỷ lệ gạo thơm, gạo đặc sản, Japonica lên 40%, gạo nếp lên 25% và sản phẩm gạo có giá trị gia tăng khác 10%.
Như vậy, Chiến lược cũng đã khẳng định rõ việc phát triển gạo sạch, chất lượng là ưu tiên số một của ngành lúa gạo trong giai đoạn hiện nay.
Với kinh nghiệm 24 năm trong ngành lúa gạo, bà Hiếu cho biết hiện công ty Bảo Minh đang kinh doanh khoảng 40 loại gạo khác nhau, trong đó chiến lược chủ yếu đi vào các giống lúa bản địa, lúa đặc sản. Để làm được điều này, DN đã và đang tổ chức quy hoạch các vùng nguyên liệu đảm bảo chỉ tiêu về organic, nguồn nước sạch, đất không bị ô nhiễm…
Giai đoạn 2015 – 2018, Bảo Minh đã làm sạch, thải độc đất (bỏ hoang 3 năm liên tục không canh tác), dự kiến đến năm 2020 sẽ có được sản phẩm gạo hữu cơ XK theo tiêu chuẩn EU, đến năm 2023 có những cánh đồng mẫu lớn đáp ứng theo yêu cầu của đối tác nước ngoài.
Khát vọng lớn, tuy nhiên điều mà bà Hiếu lo lắng là khâu tổ chức sản xuất cho nông dân tại các vùng lúa gạo đặc sản hiện nay theo hướng hữu cơ đang vô cùng nan giải.
Ngay tại các vùng lúa gạo đặc sản như Séng Cù, tám Điện Biên, Tú Lệ… ở miền núi xa xôi, hiện nay, nông dân vẫn lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, đặc biệt là thuốc trừ cỏ. Vì thế, khi đưa gạo đi xét nghiệm thì gần như không có lô nào đạt yêu cầu về dư lượng.
"Chúng tôi kiến nghị Nhà nước nên cấm không sử dụng thuốc trừ cỏ, DN phải mất 3 – 4 năm mới rửa được đất để làm lúa hữu cơ. Gạo sạch không chỉ tiêu dùng trong nước mà còn tiêu dùng quốc tế, nếu xét nghiệm thấy gạo Việt Nam có nhiễm thuốc bảo vệ thực vật chắc chắn khách hàng sẽ trả lại. Trong khi đó, mỗi một lần đi xét nghiệm để công bố vùng trồng theo tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế của Mỹ, châu Âu, châu Á, DN phải mất vài tỷ đồng", bà Hiếu cho biết.
Bên cạnh đó, trồng lúa hữu cơ không thể thiếu quy hoạch vùng trồng, giám sát thường xuyên lượng thuốc bảo vệ thực vật và sự đồng hành hỗ trợ của cơ quan nhà nước.
"Nhiều khi chúng tôi hỗ trợ cho bà con xây dựng vùng nguyên liệu, nhưng đến khi gạo được thu hoạch, ngay hôm sau, DN đến đã thấy bị thu hoạch và bán cho thương lái. Đây là câu chuyện cần cơ quan nhà nước hỗ trợ để chúng tôi yên tâm đầu tư", bà Hiếu bày tỏ.
![]() |
DN sản xuất, kinh doanh gạo hữu cơ, đặc sản gặp khó khi xây dựng vùng nguyên liệu |
Bán hàng chưa hiệu quả
Không chỉ Bảo Minh, đây cũng là mối lo của nhiều DN. Ông Nguyễn Văn Đôn, công ty Việt Hưng, cũng cho biết, trở ngại trong việc xây dựng cánh đồng lớn là có nhiều nông dân thường xuyên bẻ kèo khiến DN rất khó khăn về nguồn nguyên liệu.
DN cung cấp giống, phân bón, thuốc BVTV, hỗ trợ kỹ thuật nhưng nhiều nông dân đến khi thu hoạch thấy giá cao lại bán cho thương lái. Dù hợp đồng có quy định chế tài nhưng họ không sợ, sẵn sàng đền vì vẫn còn lời.
Theo ông Vũ Duy Hải, Chủ tịch HĐQT CTCP Agricam (Cần Thơ), Việt Nam có đủ các giống gạo ngon để cạnh tranh với gạo Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia, nhiều DN trong nước, trong đó có Agricam, đã đầu tư hệ thống xay xát, đóng gói hiện đại hàng đầu thế giới để sản xuất đáp ứng yêu cầu của các thị trường cao cấp như Úc, Mỹ. Tuy nhiên, khó khăn nhất là đảm bảo vùng nguyên liệu ổn định, để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, ổn định cung cấp cho khách hàng.
Cung cấp giống, vật tư đầu vào để nông dân làm theo quy trình và bao tiêu sản phẩm, nhưng công ty này không thể kiểm soát nổi đầu ra của nông dân. Có những thời điểm khan hàng, thương lái đến mua trả giá cao hơn vài trăm đồng mỗi kg lúa khiến nông dân bẻ kèo, dẫn tới DN không đủ lượng hàng giao cho khách.
Trước thực tế trên, ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Lộc Trời, cho rằng ngành lúa gạo muốn thành công cần đáp ứng xu thế phát triển nông nghiệp hiện đại, an toàn, chất lượng.
Đồng thời, sự quan tâm của các cấp, lãnh đạo có liên quan có vai trò quan trọng và then chốt. Sự liên kết thương mại chặt chẽ và linh hoạt giữa nông dân và DN là điều kiện tiên quyết. Làm tốt công tác quy hoạch vùng sản xuất, tập trung theo hướng chuyên canh, lựa chọn những giống có năng suất cao, chất lượng đưa vào canh tác đồng loạt.
Cuối cùng là đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy, tính kỷ luật của nông dân khi tham gia liên kết.
Đặc biệt, với các sản phẩm gạo hữu cơ, gạo đặc sản, bà Hiếu cho biết nếu DN làm tốt mà chúng ta không có cách truyền thông hiệu quả, quảng bá, chắc chắn người tiêu dùng sẽ không thể nhận biết chất lượng sản phẩm, quy trình sản xuất và giá trị của hạt gạo đó tốt như thế nào.
Bà Phùng Thị Thu Hương, Tổng Giám đốc CTCP Thương mại và Xuất nhập khẩu Green Path Việt Nam, cho hay sản phẩm gạo hữu cơ đã xuất hiện gần 10 năm nhưng ở thị trường trong nước dường như người dân vẫn chưa mặn mà sử dụng. Một phần là do giá thành sản phẩm cao vì chi phí đầu tư lớn, một phần là bởi công tác tiếp thị, quảng bá thiếu hiệu quả.
Đặc biệt, việc truyền thông, quảng bá, tiếp thị sản phẩm gạo hữu cơ, gạo đặc sản của Việt Nam ở các thị trường nước ngoài vẫn còn hạn chế. "Bản thân tôi đã đi nhiều chương trình xúc tiến thương mại các sản phẩm Organic của Thái Lan và nhận thấy họ làm rất chuyên nghiệp, bài bản", bà Hương cho biết.
Lê Thúy
Ông Hoàng Trọng Thủy - Chuyên gia nông nghiệp Chính sách đất đai cần phải sửa đổi để xây dựng vùng nguyên liệu rộng lớn, từ đó cơ giới hóa trong sản xuất. Xây dựng HTX, hình thành các trang trại lớn, có DN tham gia dẫn dắt chuỗi sản xuất. DN và nông dân như chiếc đũa có đôi. Có như thế mới kiểm soát được đầu vào lẫn đầu ra, đảm bảo chất lượng hạt gạo. Bà Bùi Thị Hạnh Hiếu - Tổng Giám đốc CTCP Chế biến và Kinh doanh nông sản Bảo Minh Để sản xuất ra những loại gạo đảm bảo hợp quy, hợp chuẩn, đạt chất lượng từ sản xuất tới bàn ăn, sản xuất theo chuỗi, giá hợp lý, có thương hiệu để người tiêu dùng trong nước và quốc tế biết đến không phải đơn thuần mà phải có quy hoạch để tính toán sản lượng theo từng năm. Chúng tôi rất mong muốn Nhà nước có giải pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn về cơ chế, chính sách mà DN gặp phải. Ts. Nguyễn Đăng Nghĩa - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn nông nghiệp nhiệt đới Trước áp lực cạnh tranh ngày càng cao ở thị trường thế giới, việc xây dựng thương hiệu cần bắt đầu bằng thị trường nội địa. Đó là xây dựng những loại gạo chất lượng cao cho người dân trong nước thông qua các phương pháp sản xuất sạch, hữu cơ. |