Ông Kyle Kelhofer, Giám đốc Quốc gia phụ trách Việt Nam, Campuchia và Lào của IFC, cho rằng việc tổ chức và số hoá quy trình chuỗi cung ứng hiện đại liên kết giữa bên mua, nhà cung cấp và các định chế tài chính sẽ giúp các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam có thể tận dụng tối đa các FTA và tham gia có lợi vào chuỗi cung ứng toàn cầu để phát triển các DN, mở rộng sang các thị trường mới.
“Nút thắt cổ chai”
Nhưng, như lưu ý của vị lãnh đạo IFC, mặc dù Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Hoa Kỳ với kim ngạch đạt 29,4 tỷ USD, nhưng chỉ có khoảng 21% DN nhỏ và vừa của Việt Nam là liên kết được với chuỗi cung ứng toàn cầu, trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 30% và Malaysia là đến 46%.
Trong khi đó, theo một báo cáo mới nhất về chuỗi cung ứng nông sản của WB cho thấy một vài chỉ số đáng quan tâm đối với các DN Việt Nam tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp. Trên thang điểm 100, Việt Nam hiện chỉ đạt 55,7 điểm trên phương diện họat động chuỗi cung ứng, 60,6 điểm trên phương diện quản lý chất lượng sản phẩm và 48,4 điểm trên phương diện thương mại kinh doanh nông sản.
Nghiên cứu của WB cho biết Việt Nam có chỉ số cơ giới hóa 24,4 điểm, tương đương với Lào, Campuchia và Myanmar nhưng kém Philippines 40 điểm. Chỉ số vận tải ngành nông nghiệp của Philippines và Lào cao hơn Việt Nam từ 10 dến 15 điểm.
Chỉ có 21% DNNVV của Việt Nam là liên kết được với chuỗi cung ứng toàn cầu
So với Philippines, WB đánh giá Việt Nam trội hơn trên phương diện quản lý chất lượng nhưng lại kém hơn trên phương diện hoạt động chuỗi cung ứng và thương mại. Việt Nam cũng có điểm số thương mại thấp hơn Campuchia và Lào.
Đây cũng chính là những vấn đề mà giới chuyên gia quốc tế muốn các DN Việt lưu tâm. Như chia sẻ của ông Julien Brun, Tổng Giám đốc công ty tư vấn CEL Consulting, cần tập trung cải thiện, tháo gỡ các “nút thắt cổ chai” trong chuỗi cung ứng.
Trao đổi với giới DN, Gs.Ts Nguyễn Mại khuyến cáo rằng để vươn tới những vị trí cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nguồn lực của DN Việt không phải chủ yếu là máy móc hay sức lao động cơ bắp, mà là tri thức, khoa học công nghệ, con người sáng tạo và lãnh đạo tài năng. Do đó, nếu DN Việt càng chậm thay đổi theo hướng đó thì những người đi trước càng củng cố vị thế, còn chúng ta càng ít có cơ hội hơn.
Hỗ trợ theo chuỗi
Gs.Ts Nguyễn Mại đã đưa ra dẫn chứng với ba trường hợp tiêu biểu về việc thiết lập chuỗi cung ứng. Thứ nhất là VinGroup, họ đã có hợp đồng với 250 nhà cung cấp và hàng trăm hợp tác xã nông nghiệp để hợp tác áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch, hướng dẫn nông dân canh tác, thu hoạch và tạo ra chuỗi cung ứng với chi phí thấp, thời gian rút ngắn từ nơi sản xuất đến siêu thị.
Do vậy, người sản xuất, DN tham gia chuỗi cung ứng, người tiêu dùng và Vingroup đều được hưởng lợi. Rõ ràng đây là là mô hình để DN Việt kinh doanh trong từng ngành hàng trên tinh thần hợp tác, liên kết, tự chủ phát triển mạng lưới, hình thành chuỗi cung ứng của Việt Nam.
Thứ hai là Vinamilk, có 10 nông trại chăn nuôi bò và 13 nhà máy trên cả nước và 3 nhà máy ở nước ngoài. Giai đoạn 2011-2015, năng suất lao động tăng 10,19%/năm và giá trị gia tăng 14,5%/năm, đạt 1,9 tỷ đồng (89.000 USD)/người/năm.
Thứ ba là Viettel, tuy là lính mới so với VNPT, nhưng đã vượt VNPT về doanh số lợi nhuận nộp ngân sách nhà nước. Viettel đã đầu tư tại 40 nước. Đến tháng 9/2016, đạt 26 triệu thuê bao, nằm trong số 30 tập đoàn viễn thông lớn của thế giới.
Từ ba điển hình trên đây, như nhận định của Gs.Ts Nguyễn Mại, cho thấy năng lực của nhiều tập đoàn kinh tế Việt Nam đủ sức hình thành chuỗi cung ứng toàn cầu nhiều loại sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Ông cũng khuyến nghị các Hiệp hội ngành hàng nên hướng vào việc hình thành chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu, phấn đấu để Việt Nam có nhiều thương hiệu mạnh trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, như quan điểm của giới chuyên gia, dưới góc độ hỗ trợ các dịch vụ tài chính phù hợp, việc tài trợ chuỗi cung ứng cho các DN Việt sẽ cho phép các nhà cung cấp cải thiện tình trạng vốn lưu động bằng việc chuyển hoá các khoản phải thu và hàng tồn kho thành tiền mặt một cách nhanh chóng và tiếp cận vốn với chi phí thấp, dựa trên mức tín nhiệm tín dụng cao của bên mua.
Sản phẩm tài trợ này cũng sẽ tạo điều kiện cho các nhà cung cấp Việt ở các thị trường mới nổi có thể thực hiện tài trợ cho các giao dịch thanh toán sau với lãi suất cạnh tranh. Điều này sẽ khiến cho các nhà cung cấp trở nên hấp dẫn hơn đối với bên mua là các công ty toàn cầu.
Ông Daryl Chong, Phó Chủ tịch quản lý chuỗi cung ứng châu Á – Thái Bình Dương của BNP Paribas, cho rằng các nhà cung cấp là những DN nhỏ và vừa của Việt Nam sẽ hưởng những lợi ích khi được hỗ trợ các nhu cầu về vốn lưu động của nhà cung cấp mà không làm ảnh hưởng đến các yếu tố của vốn lưu động và bảng cân đối kế toán.
Thế Vinh