Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính chung bốn tháng đầu năm nay, cả nước có 81,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 20,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 86,4 nghìn doanh nghiệp, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 21,6 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Nhìn nhận về vấn đề này, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan bình luận, chưa bao giờ số doanh nghiệp mới hoạt động thấp hơn số doanh nghiệp rời khỏi thị trường như hiện nay: “Đó là mất mát lớn của nội lực Việt Nam. Chúng ta mất doanh nghiệp, mất việc làm, mất thu nhập của người dân, mất thị trường, mất sản phẩm và mất cả niềm tin chứ không phải đùa. Do đó, tôi nghĩ rằng trong các đánh giá tới đây, để đưa ra cái mới thì cần nhìn nhận rất nghiêm khắc về nội lực”.
![]() |
Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường bốn tháng đầu năm tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước. |
Theo vị chuyên gia kinh tế, không có nội lực thực sự thì đất nước sẽ không tận dụng được các yếu tố ngoại lực như FDI hay việc làm bạn với các quốc gia G7. Ngoài ra, nếu chỉ trông chờ vào những nguồn lực ngoại này mà không tìm cách làm giàu nội lực, Việt Nam sẽ mãi là quốc gia làm gia công. Trong khi những nước khác có thể vượt lên, làm tốt hơn rất nhiều.
Bà Lan chỉ ra, bên cạnh những nội dung đã hoàn thiện được thì hệ thống các quy định và thực hiện các quy định hiện còn nhiều vấn đề trở thành rào cản lớn cho sự phát triển của doanh nghiệp.
“Trong báo cáo dòng chảy pháp luật kinh doanh của VCCI, các doanh nghiệp còn nói là càng đề ra nhiều các chính sách, quy định mới thì lại càng rối rắm phức tạp hơn, tạo thêm rủi ro chứ không phải hành lang an toàn cho doanh nghiệp hoạt động, cũng như cho các cán bộ chính quyền địa phương. Quy định mới nhiều khi chồng chéo, xung đột và không nhất quán với nhau. Đúng quy định này nhưng có thể vi phạm quy định khác. Như vậy rủi ro không chỉ cho một loạt các công chức, quan chức thời gian vừa qua, mà còn rủi ro cho doanh nghiệp rất lớn”, bà Lan thẳng thắn nhận định.
Theo đó, cần có một hệ thống thể chế thực sự kiến tạo cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Bản thân thể chế phải có tính chất ổn định, bền vững, tính chất tiên liệu thì mới có thể giúp cho người dân, doanh nghiệp phát triển.
Có chung quan điểm, PGS. TS. Bùi Quang Tuấn, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, thể chế cần xác định rõ Nhà nước có vai trò “bà đỡ”, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ cho khu vực tư nhân. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay phải hỗ trợ cho đổi mới sáng tạo.
Chuyên gia nhấn mạnh vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Cần có nhiều hơn những chính sách thu hút tinh hoa, nhân tài trong và ngoài nước: “Công thức phát triển nguồn nhân lực không như những giai đoạn trước mà phải đặt trong bối cảnh mới. Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế biển xanh, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn… đều là những lĩnh vực mới, đòi hỏi con người với những kỹ năng mới, đặc biệt là phải có nhân tài, có tinh hoa”.
Các chuyên gia thống nhất đổi mới sáng tạo phải đi cùng với giáo dục. Nếu muốn nhấn mạnh đổi mới sáng tạo mà không đi kèm với giáo dục thì Việt Nam khó có thể phát triển một nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo.
Dựa trên những xu hướng toàn cầu giai đoạn 2025 - 2030 và triển vọng tới năm 2045, các chuyên gia của Viện Chiến lược phát triển (VIDS), Bộ Kế hoạch - Đầu tư dự đoán thị trường cách mạng công nghiệp 4.0 toàn cầu dự kiến tăng từ 61 tỷ USD năm 2021 lên 280,2 tỷ USD năm 2030, tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 21%.
Những tiến bộ về công nghệ sẽ định hình xã hội, nền kinh tế và cả quyền lực của các nền kinh tế trên toàn cầu. Nguy cơ tụt hậu công nghệ sẽ lớn hơn nếu Việt Nam không thích ứng trước xu hướng phát triển công nghệ nhanh chóng hiện nay. Điều này phụ thuộc rất lớn vào con người và thực thi chính sách.
Bên cạnh việc tận dụng các cơ hội tích cực từ bên ngoài, Việt Nam cần xây dựng, phát triển thể chế phù hợp với tình hình mới. Trong đó, phân định vai trò của nhà nước, pháp luật hóa chủ trương chính sách và hoàn thiện hệ thống luật pháp. Qua đó, tạo nền tảng để thúc đẩy khu vực tư nhân.
Đỗ Kiều