Theo đánh giá của Bộ Tài chính, với kịch bản năm 2022, lạm phát của Việt Nam có thể lên đến từ 3,6 - 4,3%. Như vậy công tác điều hành cần phải triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm, trong quý I và quý II - là thời gian bản lề cho năm 2022.
Lạm phát cả năm có thể lên đến 4,3%
Theo số liệu từ Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, từ năm 2015 đến nay, lạm phát được kiểm soát tốt, dao động từ 2-3%; trong đó lạm phát lõi chỉ từ 1-2%. Đây là mức tốt so với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Các chuyên gia cho rằng giá xăng dầu tăng quá cao đã làm che mờ tác động tích cực từ gói hỗ trợ phục hồi, đặc biệt là gói giảm VAT. |
Tuy nhiên, năm nay các chuyên gia cho rằng chu kỳ lạm phát khác với các chu kỳ lạm phát trước. Đó là, ở các chu kỳ lạm phát trước, tổng cầu gia tăng quá nhanh, cao hơn sản lượng tiềm năng của nền kinh tế đã tạo ra sự chênh lệch sản lượng và gây áp lực lên lạm phát. Trong khi đó, lạm phát lần này bị tác động bởi sự thiếu hụt cung hàng hóa cơ bản để phục vụ cho sản xuất.
“Có những yếu tố không thể lường trước được, ví dụ như xung đột giữa Nga và Ukraine đã tác động đến giá nguyên vật liệu, năng lượng và giá xăng dầu trên thế giới tăng rất cao. Điều này, kéo theo đà tăng giá của các loại hàng hóa cơ bản khác trên thị trường như sắt thép, phân bón, than đá… và tạo áp lực lớn lên lạm phát”, ông Nguyễn Xuân Định, Phó Trưởng phòng Chính sách tổng hợp, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho biết.
Đơn cử, bình quân tháng 1/2022, giá xăng dầu thành phẩm chỉ có 98 USD/thùng, thì đến nay giá xăng dầu thành phẩm đã vượt qua mức 130 USD/thùng. Tương tự, than vào thời điểm này cách đây 2 tuần trên thị trường thế giới chỉ khoảng 200 USD/tấn, thì hiện nay lên hơn 400 USD/tấn. Đây cũng là một trong những yếu tố chi phí ảnh hưởng trực tiếp tới ngành điện.
Đưa ra nhận định về những tác động tới lạm phát, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm phân tích, Việt Nam đang phải chịu áp lực lạm phát từ 3 yếu tố. Đầu tiên là tổng cầu trong nước đang tăng đột biến. Khi nhu cầu nội địa tăng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới lạm phát. Thứ hai, kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, do đó, khi giá nhiên liệu thế giới tăng, lạm phát tại Việt Nam cũng sẽ tăng theo. Cuối cùng, nguyên nhân gây ra lạm phát nặng nhất chính là tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng.
Ông Nguyễn Bá Khang, Phó giám đốc Trung tâm Thông tin giám sát tài chính quốc gia dự báo: "Lạm phát bình quân quý I/2022 so với năm 2021 có thể tăng trong khoảng 2 - 2,2%".
Ông Nguyễn Bích Lâm cảnh báo, trong trường hợp xấu nhất, lạm phát trở nên tồi tệ, có thể mặt bằng giá mới sẽ được thiết lập. Như vậy, mọi kế hoạch kinh doanh, đầu tư sẽ phải xây dựng dựa trên mặt bằng giá khác, cao hơn. Đó là chưa kể, khi xảy ra lạm phát, thu nhập thực của người dân cũng bị hao hụt, đồng tiền nội địa cũng trở nên mất giá.
Áp lực lạm phát từ gói hỗ trợ không lớn
Với đà tăng giá cả hàng hoá như hiện nay, các chuyên gia cho rằng rất khó để đòi hỏi tăng trưởng ở mức đề ra trước đó mà lạm phát vẫn ở mức dưới 4%. “Liệu chúng ta có đang tự bó hẹp tiềm năng của mình? Chúng ta có chấp nhận ở mức lạm phát cao hơn một chút, có thể điều chỉnh lạm phát bình quân ở mức dưới 5% (cộng trừ 1%) để đạt mức tăng trưởng kỳ vọng hay không?”, ông Nguyễn Bá Khang, Phó giám đốc Trung tâm Thông tin giám sát tài chính quốc gia (Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia) đặt câu hỏi và cho rằng: “Đối với các quốc gia đang phát triển thu nhập trung bình thấp nếu mức lạm phát bình quân vượt qua vưỡng 7-8% mới có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Còn nếu ta vẫn đạt ở mức 5-6% thì lạm phát không phải là vấn đề lớn”.
Trước những lo ngại áp lực lạm phát sẽ lớn hơn khi các gói phục hồi kinh tế với quy mô lớn sắp được đưa vào đời sống. Các chuyên gia cho rằng khi nhìn vào gói phục hồi kinh tế 350.000 tỷ đồng có thể thấy phần tăng cung tiền là không nhiều, nên không quá lo lắng về việc tổng cầu sẽ bị gia tăng quá mức.
“Tôi cho rằng, điều quan trọng hiện nay để kiểm soát lạm phát cần tăng cường sự phối hợp giữa các chính sách khác nhau như là chính sách tài khóa và tiền tệ”, ông Khang nói.
Phân tích thêm, ông Khang cho biết, về chính sách tiền tệ vẫn nên tiếp tục giữ ổn định tỷ giá để giảm bớt áp lực của nhập khẩu lạm phát, kiểm soát tín dụng sao cho phù hợp với mức độ hấp thụ của nền kinh tế, đặc biệt là không đưa tín dụng vào các lĩnh vực dễ gây rủi ro như bất động sản và chứng khoán.
Về chính sách tài khóa, cần tiếp tục nghiên cứu đề xuất những giải pháp mới để giảm chi phí cho doanh nghiệp, điều này sẽ giúp giảm bớt các chi phí khiến tăng giá sản xuất và không gây ra việc tăng giá chung.
Cần nâng cao hiệu quả trong phối hợp chính sách tài khoá và tiền tệ, trong điều hành cung tiền, lãi suất cũng như điều tiết lượng tiền ra vào và điều tiết giá cả qua đó bình ổn giá cả.
Thanh Hoa