Theo thống kê của công ty chứng khoán SSI, số trái phiếu doanh doanh nghiệp (TPDN) đáo hạn trong 2 năm 2022-2023 ước khoảng 540 nghìn tỷ đồng, và chiếm khoảng 36% lượng TPDN lưu hành, dẫn đến nhu cầu phát hành để đảm bảo vòng quay vốn của các doanh nghiệp khá cao.
Còn theo ước tính của chuyên gia kinh tế, TS Lê Xuân Nghĩa từ nay đến cuối năm sẽ có 112.000 tỷ đồng TPDN đáo hạn. Trong tổng dư nợ 1,4 triệu tỷ đồng TPDN hiện nay có tới 700-800 nghìn tỷ đồng dư nợ bất động sản.
Tuy nhiên, các chuyên gia nhận định cuối năm 2022 và năm 2023, 2024 sẽ là giai đoạn khó khăn về dòng tiền đối với các doanh nghiệp bất động sản có trái phiếu đáo hạn. Đặc biệt đối với cá doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, chất lượng tài sản không cao sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn để xoay vòng khi nguồn vốn vay ngân hàng khó tiếp cận; nguồn vốn từ phát hành trái phiếu bị siết chặt; sức hấp thụ của thị trường bất động sản trong năm 2023 - 2024 là không cao do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế.
![]() |
Uớc khoảng 540 nghìn tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp sẽ được đáo hạn trong thời gian tới. |
Trong bối cảnh đó, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, với doanh nghiệp, nếu tự thấy mình có khả năng rơi vào cảnh vỡ nợ trái phiếu, cần có hành động ngay. Một là, thử phát hành thêm để đảo nợ TPDN, chấp nhận lãi suất cao. Thứ hai, nếu không thể phát hành thêm thì phải nhanh chóng bán các dự án đang có để giải quyết rốt ráo nợ TPDN đến hạn, tránh để mất uy tín.
Ông Nghĩa cho rằng, đảo nợ thực chất không xấu mà do đặc điểm thị trường TPDN đang có kỳ hạn quá ngắn (chỉ khoảng 3 năm), buộc doanh nghiệp phải liên tục phát hành mới để đảo nợ. Trước đây, trái phiếu Chính phủ cũng rơi vào tình cảnh tương tự khi kỳ hạn phát hành chỉ 1-3 năm, tức giải ngân đầu tư công chưa xong đã đến kỳ đáo hạn. Cuối cùng, Chính phủ hạ quyết tâm tìm mọi cách để đẩy kỳ hạn trái phiếu Chính phủ lên 5-10 năm, thậm chí 20 - 30 năm. Bí quyết cho sự thành công này là hai chữ: minh bạch.
Dưới góc độ cơ quan quản lý, các chuyên gia cho rằng, việc cấp thiết cần làm ngay từ nay đến cuối năm là nhanh chóng ban hành được Nghị định sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán TPDN ra thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, phải khuyến khích được các tập đoàn uy tín phát hành trở lại TPDN. Đồng thời, Chính phủ, Bộ Tài chính phải có thông điệp để tạo niềm tin cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu.
Bàn về việc nâng cao chất lượng trái phiếu doanh nghiệp tại tọa đàm "Phát triển nguồn vốn cho bất động sản", được tổ chức ngày 24/8, các chuyên gia đều cho rằng cần sớm sửa đổi nghị định 153 để giúp thị trường hoạt động minh bạch hơn. Tuy nhiên, để làm được điều đó, nhiều ý kiến cho rằng quan trọng phải đúng lúc, đúng đối tượng.
Ông Phùng Xuân Minh - Chủ tịch HĐQT Saigon Ratings nhấn mạnh đến quy định các tổ chức phát hành và trái phiếu cần phải được quy định bắt buộc Xếp hạng tín nhiệm. Trên cơ sở đó, có thể phân định rõ chất lượng tín nhiệm của từng loại hình tổ chức phát hành và các trái phiếu, theo chuẩn mực và tiêu chí đánh giá ở các mức đầu tư hay là đầu cơ để các nhà đầu tư trên thị trường tham khảo, quyết định đầu tư phù hợp với khẩu vị rủi ro đầu tư.
Tuy nhiên, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng không nên kỳ vọng vào một văn bản pháp lý sẽ như thế nào. Nhưng để thị trường trái phiếu phát triển lành mạnh thì các nhà làm luật phải hiểu rằng trái phiếu phát hành ra công chúng là quan trọng nhất. Nếu cứ ồ ạt phát hành riêng lẻ thì thị trường không thể minh bạch hơn được và việc xếp hạng tín nhiệm trở nên vô nghĩa. Ai đầu tư lỗ thì phải chịu, không thể trách ai được.
"Quy định mới phải làm thế nào hạn chế tối đa việc phát hành riêng lẻ và mở rộng tối đa việc phát hành ra công chúng", ông nói. Đồng thời khẳng định: "Thời điểm từ nay đến cuối năm chưa phải là thời điểm chúng ta đưa ra được quy định căn cơ, mà đây là thời điểm chống chọi với những nguy cơ trước mắt và khắc phục những nguy cơ gây đổ bể lớn cho hệ thống tài chính".
Trong khi đó, chuyên gia kinh tế, TS. Cấn Văn Lực nhận định: Nghị định 153 sửa đổi chắc chắn sẽ phải theo hướng thận trọng và chặt chẽ hơn, nhưng quan trọng phải đúng lúc, đúng đối tượng. Liên quan đến nhà đầu tư, rõ ràng phải chuyên nghiệp hơn, tiêu chí phải cao hơn, chủ thể phát hành phải minh bạch hơn, các đơn vị trung gian cũng phải được chuẩn hóa.
Bên cạnh đó, việc mua đi bán lại trái phiếu trên thị trường thứ cấp cũng phải rõ ràng và chuyên nghiệp hơn. Liên quan đến việc phát hành ra công chúng, kênh này phải mở rộng hơn, thông thoáng hơn chứ không phải mất quá nhiều quy trình thủ tục để xin phát hành.
Cuối cùng, sửa Nghị định 153 chắc chắn sẽ giúp thị trường lành mạnh hơn, an toàn hơn cho cả doanh nghiệp và nhà đầu tư. Nhưng song song với đó phải sửa Nghị định 156 liên quan đến chế tài để xử phạt những trường hợp vi phạm. Tuy nhiên, không quá kỳ vọng Nghị định này sẽ giải quyết được hết mọi vấn đề còn tồn tại trên thị trường trái phiếu.
Thanh Hoa