Nhiều ý kiến cho rằng có tình trạng này là do mức lợi nhuận hấp dẫn, không tài sản thế chấp, không thủ tục, giấy tờ phiền hà. Trong khi đó, Nghị định 144/2006/NĐ-CP về họ được ban hành trên cơ sở quy định tại Điều 479 Bộ luật Dân sự đang tồn tại những hạn chế, bất cập khiến cơ quan quản lý khó khăn trong việc thi hành pháp luật dẫn tới tình trạng biến tướng của chơi họ vẫn tràn lan.
Rủi ro vẫn chơi
Thời gian qua, nhiều công ty tài chính tiêu dùng đã “đổ bộ” tới các miền quê dưới hình thức cho vay mua hàng trả góp, với mặt hàng chủ yếu là các thiết bị gia dụng như: ti vi, tủ lạnh, điều hòa, máy giặt…
Tuy nhiên, vẫn còn một phần lớn người dân nông thôn có nhu cầu vay vốn để đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, trang trải nợ nần, cho con ăn học, đi xuất khẩu lao động, xin việc… lại không thể tiếp cận được với các công ty tài chính tiêu dùng.
Trong khi đó, việc vay vốn tại các ngân hàng thương mại vô cùng khó khăn do không có tài sản thế chấp, thủ tục rườm rà, không phải ai cũng có thể đáp ứng được. Nếu có cũng chỉ vay được một lần, nên người dân chủ yếu sử dụng khi cần vay với số tiền lớn từ 50 triệu đồng trở lên.
Vì vậy, với những khoản tiền dưới 50 triệu, người nào làm ăn tốt, có nhiều quan hệ thì có thể vay ở các quỹ tín dụng nhân dân. Còn lại, phần lớn người dân chỉ biết vay tiền người thân, chơi “họ, hụi, biêu, phường” (gọi chung là họ).
Ví dụ, nhóm chơi gồm 10 người góp vốn với mức 1 triệu đồng/tháng sẽ đưa ra quy định ai muốn lấy trước sẽ phải mua 300.000 đồng/người. Khi đó, 9 người còn lại chỉ phải đóng 700.000 đồng/ tháng cho người lấy đầu tiên. Vì vậy, thay vì nhận được 9 triệu đồng góp của 9 người kia, thực tế người nhận tiền đầu tiên chỉ được nhận 6,3 triệu đồng.
Trong 9 tháng còn lại, người nhận tiền đầu tiên vẫn phải đóng 1 triệu đồng/tháng để trả cho những người còn lại. Như vậy, người đầu tiên chỉ được nhận 6,3 triệu đồng, trong khi phải đóng đến 9 triệu đồng…
Hình thức này đang được ưa chuộng và diễn ra phổ biến ở các vùng nông thôn trên cả nước. Ngoài một số người tham gia vì nhu cầu cần tiền, một số tham gia là để lấy lãi.
Về mặt lý thuyết, người cuối cùng nhận tiền là người có lợi nhất, nhưng cũng là người chịu rủi ro nhất nếu một vài thành viên tham gia họ vì lý do nào đó mà không đóng góp được.
Từ năm 2015, Nghị định 144/2006/NĐ-CP về họ được ban hành trên cơ sở quy định tại Điều 479 Bộ luật Dân sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của người chơi họ.
Tuy nhiên, nhu cầu cho vay, đi vay bằng phương thức họ ngày càng đa dạng. Một số nơi, việc chơi họ phát triển với quy mô lớn, có tính chất phức tạp, các quy định này cũng không ngăn nổi những biến tướng thành hình thức huy động vốn, cho vay nặng lãi. Vì vậy, những vụ vỡ họ liên tiếp xảy ra trong thời gian qua với quy mô lớn gây hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân và tổ chức.
Hình thức chơi họ đang được ưa chuộng và diễn ra phổ biến ở các vùng nông thôn trên cả nước |
Tránh biến tướng, vỡ họ
Theo giới luật sư, tình trạng này có nguyên nhân do nội dung Nghị định 144 có những hạn chế, bất cập nhất định như quy định về người tham gia chơi họ, hình thức thỏa thuận họ, sổ họ, cơ chế kiểm soát họ, lãi suất họ… dẫn đến các cơ quan có thẩm quyền khó khăn trong công tác thi hành pháp luật.
Mới đây, Bộ Tư pháp đã trình lấy ý kiến Dự thảo sửa đổi Nghị định 144 nhằm thiết lập cơ chế để quan hệ về họ thực sự là nhằm mục đích tốt đẹp ban đầu là tương trợ trong nhân dân một cách lành mạnh. Đặc biệt là “siết” các quy định để ngăn chặn sự biến tướng, nâng cao thêm quyền và vai trò của Nhà nước trong việc quản lý.
Theo đó, Dự thảo có một số đề xuất thay đổi với 2 phương án.
Phương án 1: “Một người được làm chủ họ của một hoặc nhiều dây họ tại cùng một thời điểm nếu tổng giá trị các phần họ tại một kỳ mở họ của các dây họ không quá 200 triệu đồng, trừ trường hợp có sự đồng ý của tất cả thành viên của các dây họ”.
Phương án này nhằm hạn chế tình trạng một chủ họ đồng thời làm chủ một hoặc nhiều dây họ với giá trị lớn tiềm ẩn nguy cơ giật họ, vỡ họ.
Phương án 2: “Một người được làm chủ họ không quá 2 dây họ tại cùng một thời điểm, trừ trường hợp có sự đồng ý của tất cả thành viên của các dây họ”.
Phương án này nhằm hạn chế một người làm chủ họ chuyên nghiệp, có thu nhập chính từ việc làm chủ họ từ đó dẫn đến nhiều biến tướng.
Điều 8 của dự thảo còn đưa ra phương án quy định dây họ phải được các thành viên thỏa thuận bằng văn bản. Nếu tổng số tiền một lần mở họ từ 100 triệu trở lên thì văn bản thỏa thuận về dây họ phải được công chứng, chứng thực.
Đồng thời, dự thảo đưa trách nhiệm quản lý của UBND cấp xã vào Điều 32. Theo đó, tại Điều 15 và Điều 18 và Điều 32 quy định các dây họ có tổng số tiền của một kỳ mở họ từ 100 triệu đồng trở lên thì người tham gia có quyền và chủ họ có nghĩa vụ phải thông báo đến UBND cấp xã nơi mình cư trú. UBND cấp xã phải có trách nhiệm thống kê thông tin về chủ họ, các dây họ này.
Huyền Anh