Chiều 15/1, Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Quy định giảm tỷ lệ sở hữu của cá nhân, tổ chức tại các nhà băng nhằm giảm sở hữu chéo, chi phối và thao túng ngân hàng nhận được nhiều góp ý từ các đại biểu.
17 ngân hàng có cổ đông tổ chức vượt giới hạn
Dự thảo lần này giữ nguyên tỷ lệ sở hữu với cá nhân là 5% như quy định hiện hành thay vì giảm về mức 3% như dự thảo trước đó. Quy định này được đánh giá là hợp lý.
Tuy vậy, tỷ lệ sở hữu với tổ chức vẫn giảm từ 15% như quy định hiện hành xuống 10%; cổ đông và người có liên quan giảm từ 20% xuống 15%.
Tại báo cáo giải trình, tiếp thu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vẫn giữ quan điểm cần giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông là tổ chức tại ngân hàng. "Việc này sẽ giúp đa dạng cơ cấu cổ đông, tăng tính đại chúng và hạn chế chi phối, thâu tóm ngân hàng", Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu.
Đề xuất giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ chức từ 15% như quy định hiện hành xuống 10% (Ảnh minh họa) |
Đồng thời, cơ quan thường trực Quốc hội cho rằng tỷ lệ sở hữu của tổ chức giảm từ 15% xuống 10% cũng phù hợp với định hướng tại Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu 2021-2025.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 31/12/2022, nếu điều chỉnh giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cổ đông là tổ chức từ 15% xuống 10% vốn điều lệ tại dự thảo Luật sẽ có tổng số 17 cổ đông là tổ chức tại 13 ngân hàng TMCP, 1 công ty tài chính có mức sở hữu cổ phần vượt 10%.
Để tránh xáo trộn, tác động tiêu cực tới hệ thống ngân hàng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại báo cáo giải trình, tiếp thu cho biết dự thảo Luật lần này đưa ra điều khoản chuyển tiếp. Cụ thể, từ 1/1/2025 (thời điểm Luật có hiệu lực), cổ đông vượt tỷ lệ sở hữu cổ phần được duy trì nhưng không tăng thêm, trừ trường hợp họ nhận cổ tức bằng cổ phiếu.
Góp ý việc điều chỉnh tỷ lệ sở hữu như trên, nhiều ý kiến đại biểu cho rằng siết tỷ lệ sở hữu không phải là biện pháp trọng yếu để ngăn sở hữu chéo. Thực tế, nếu cổ đông và nhóm cổ đông sở hữu không quá 15- 20% vốn ngân hàng như quy định hiện nay, không ai có thể chi phối được quyền cấp tín dụng của ngân hàng. Song, tại một vài ngân hàng, nhóm cổ đông vẫn sở hữu quá 50% vốn ngân hàng, làm "khuynh đảo" ngân hàng.
Giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông chưa phải là giải pháp phù hợp
"Việc này chỉ kiểm soát về hồ sơ. Khống chế tỷ lệ sở hữu không quan trọng bằng việc giám sát thực thi quy định. Chưa kể việc này có thể tạo thêm rào cản ngăn dòng vốn ngoại vào ngân hàng nội", bà Đoàn Thị Lê An, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cao Bằng nói.
Mặt khác, theo bà An, chủ ngân hàng khó có thể lũng đoạn hoạt động cho vay của ngân hàng nếu chỉ nắm 15-20% vốn. Thực tế, các trường hợp sai phạm vừa qua cũng cho thấy tỷ lệ sở hữu thực sự của "ông chủ" ngân hàng có thể cao hơn nhiều so với quy định thông qua công ty con, công ty liên kết hoặc cá nhân khác đứng tên.
"Sửa luật để phù hợp thực tiễn là cần thiết, nhưng khống chế tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng không đủ ngăn tái diễn vụ việc như SCB. Bởi, sở hữu chéo, thao túng ngân hàng rất phức tạp, nếu nhìn trên giấy tờ thì nhiều cổ đông sở hữu thấp hơn tỷ lệ cho phép nhưng vẫn nắm quyền chi phối", bà An nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, ông Võ Mạnh Sơn, Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa, cho rằng quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu với mục tiêu tăng tính an toàn cho hệ thống ngân hàng là cần thiết, song biện pháp tiếp tục giảm tỷ lệ sở hữu tối đa chưa phải là giải pháp phù hợp vào thời điểm này.
Theo đại biểu Võ Mạnh Sơn, nên giữ tỷ lệ sở hữu như quy định hiện hành, vì tỷ lệ sở hữu của cá nhân, tổ chức và cá nhân, người có liên quan tại các ngân hàng theo quy định hiện nay lần lượt 5% và 15%, là thấp so với nhiều nước.
"Tỷ lệ sở hữu trực tiếp của cổ đông không phải là nguyên nhân gây mất an toàn hệ thống. Giảm tỷ lệ này chưa phải là giải pháp phù hợp lúc này", ông nêu.
Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa phân tích, tỷ lệ sở hữu quá thấp khiến các cổ đông không gắn bó với kinh doanh ngân hàng. "Các cổ đông lớn không chỉ đầu tư tiền bạc, họ còn mang công nghệ, quản trị hỗ trợ hoạt động ngân hàng mà họ rót vốn tham gia hiệu quả hơn", và nêu quan điểm cần giữ nguyên tỷ lệ sở hữu như hiện nay.
Đồng thời, Luật cần quy định chặt chẽ hơn về điều kiện và thủ tục cấp tín dụng cho ngân hàng liên quan tới cổ đông sở hữu cổ phần, không áp dụng hồi tố trong các trường hợp đã sở hữu trước ngày Luật này có hiệu lực.
Trong khi đó, bà Hoàng Thị Thanh Thúy, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh ủng hộ việc "siết" lại tỷ lệ sở hữu tại các nhà băng. Tuy nhiên, bà lưu ý môi trường tín dụng của Việt Nam có thể kém hấp dẫn hơn các nước trong khu vực khi tỷ lệ sở hữu của cổ đông (cá nhân, tổ chức) giảm.
"Các ngân hàng có thể gặp khó khăn trong hoạt động tín dụng khi áp quy định giảm tỷ lệ sở hữu", bà Thúy nhận xét.
Phó trưởng đoàn đại biểu tỉnh Tây Ninh cho rằng ban soạn thảo cần cân nhắc bổ sung phân loại tổ chức tín dụng theo tiêu chí tổng vốn tự có, và ứng mỗi nhóm sẽ có tỷ lệ cấp tín dụng khác nhau.
"Quy mô vốn của các ngân hàng liên tục tăng, có sự phân hóa giữa các ngân hàng, vì thế không nên áp dụng cào bằng", bà nói.
Chẳng hạn, tỷ lệ 8% hay 10% trên quy mô vốn như VPBank, Vietcombank thì con số này lớn, dẫn tới rủi ro thanh toán cho các khoản tín dụng và giảm cơ hội tiếp cận vốn của các nhà băng.
Huyền Anh