Tuy nhiên, theo các chuyên gia trong ngành, dù góc nhìn có khác nhau thì việc trích lập dự phòng rủi ro về cơ bản vẫn là một khoản chi phí bắt buộc theo quy định của các ngân hàng nhằm xử lý nợ xấu, đồng nghĩa với việc nhà băng nào nhiều nợ xấu thì trích lập dự phòng rủi ro sẽ cao.
Trích lập tăng mạnh
Thống kê từ báo cáo tài chính của 23 ngân hàng cho thấy, 9 tháng đầu năm 2018, tổng chi phí dự phòng rủi ro lên đến 46.616 tỷ đồng, bằng 42,6% lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh và tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2017.
Trong đó, ba “ông lớn” ngân hàng nhà nước là Vietcombank, VietinBank, BIDV có tổng trích lập dự phòng rủi ro chiếm hơn nửa toàn hệ thống.
Cụ thể, tính đến hết quý III, BIDV trích lập dự phòng rủi ro 14.366 tỷ đồng, chiếm 66,4% thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh; Vietcombank trích lập 4.998 tỷ đồng, bằng 30%; VietinBank là 8.330 tỷ đồng, bằng 52,3%.
Không chỉ các “ông lớn” nêu trên, một số ngân hàng thương mại cổ phần cũng gia tăng trích lập dự phòng, thậm chí có nhà băng còn trích tới 90% lợi nhuận cho chi phí dự phòng, như SCB dành tới 92% (so với mức 71% cùng kỳ năm 2017). MaritimeBank cũng trích lập dự phòng rất cao tới 74% so với mức 43% cùng kỳ năm 2017 do nợ xấu tăng lên 2,48%.
Nợ xấu của MB cũng tăng mạnh. Cụ thể, nợ dưới tiêu chuẩn là hơn 781 tỷ đồng, tăng 6%. Nợ nghi ngờ tăng từ 663 tỷ đồng hồi đầu năm lên 1.118,3 tỷ đồng. Nợ có khả năng mất vốn cũng tăng tương ứng từ hơn 813 tỷ đồng lên 1.318 tỷ đồng. Do đó, trong quý III, nhà băng này phải tăng trích lập dự phòng rủi ro lên 2.291 tỷ đồng, chiếm 27,6% lợi nhuận thuần.
Cũng có một số ngân hàng tăng trích lập dự phòng rủi ro dù tỷ lệ nợ xấu giảm như: Sacombank tăng mạnh trích lập dự phòng lên 47% so với cùng kỳ 2017 là 18%, trong khi nợ xấu giảm từ 4,67% cuối năm 2017 xuống còn 3,18% tính đến quý III.
Không thể phủ nhận sau hơn một năm triển khai Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu, nợ xấu của toàn hệ thống đã giảm mạnh từ 2,46% hồi đầu năm xuống còn 2,09% trên tổng dư nợ tại thời điểm 30/6.
Các chuyên gia tài chính cho rằng xét về mặt con số, đây là một kết quả đáng mừng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu xét trên tình hình thực tế thì nợ xấu vẫn đang là vấn đề đáng lo ngại do công tác xử lý nợ xấu vẫn tồn tại nhiều khó khăn, việc xử lý nợ xấu hiện tại vẫn chủ yếu từ nguồn dự phòng rủi ro. Trong khi đó, nợ xấu mới đang có dấu hiệu tăng trở lại.
Nhiều ngân hàng gia tăng trích lập dự phòng rủi ro |
Gánh nặng hay của để dành?
Báo cáo của CTCP Chứng khoán Quốc tế Việt Nam (VISercurities) cũng chỉ ra rằng nợ xấu của nhiều ngân hàng đang tăng trở lại. Chỉ tính riêng các ngân hàng niêm yết, nợ xấu tính đến cuối quý III/2018 đã tăng thêm gần 15.000 tỷ đồng so với đầu năm.
Một chuyên gia tài chính còn đưa ra nhận định, về cuối năm và nhất là sang năm 2019, khi nợ xấu từ các khoản cho vay bất động sản tăng sẽ kéo theo dự phòng rủi ro, ảnh hưởng lợi nhuận của ngành.
Theo phân tích của các chuyên gia, bản chất của chi phí trích lập dự phòng rủi ro là dự phòng một khoản tiền cho các khoản vay có vấn đề. Do đó, chi phí cho khoản dự phòng sẽ được lấy từ khoản lợi nhuận của ngân hàng và được khấu trừ khỏi thu nhập hiện hành trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Chi phí dự phòng tăng đồng nghĩa quy mô lợi nhuận tính thuế của các ngân hàng sẽ giảm xuống, thuế phải nộp sẽ ít đi.
Tuy nhiên, khi mỗi đồng nợ xấu được xử lý, thu hồi, số tiền trích lập dự phòng sẽ được hạch toán trực tiếp vào thu nhập bất thường. Vì thế, nhiều ngân hàng cho rằng khoản chi phí dự phòng này như “của để dành” sẽ quay trở lại và làm tăng lợi nhuận tính thuế trong tương lai.
Góc nhìn của các cổ đông và nhà đầu tư ngân hàng lại hoàn toàn ngược lại. Thông thường, cổ đông muốn được nhìn thấy con số lợi nhuận của ngân hàng tăng mạnh để giúp đẩy cao thị giá cổ phiếu. Mặt khác, lợi nhuận tăng cao, cổ đông sẽ được chia cổ tức bằng tiền mặt. Vì thế, việc trích lập dự phòng rủi ro đối với họ là một gánh nặng.
Một cổ đông cho rằng thực tế, nợ xấu vẫn đang là vấn đề nóng đối với ngành ngân hàng, nợ xấu ngày một tăng trong khi việc mua bán nợ chưa sôi động, chưa có thị trường mua bán nợ, các thương vụ lớn chưa phát sinh nhiều.
Nhiều khoản nợ xấu có nguồn gốc là từ các khoản đầu tư cơ bản, nợ đọng từ ngân sách nhà nước khó xử lý, tiêu biểu như khoản nợ tại 12 dự án thua lỗ của ngành công thương. Vì thế, việc ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro sẽ là “gánh nặng” không chỉ đối với ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông.
Huyền Anh