Theo các chuyên gia ngành nông nghiệp, vùng ĐBSCL có diện tích đất trồng lúa 1,85 triệu ha, hàng năm sản xuất hơn 50% sản lượng lương thực cả nước và cung cấp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, việc sản xuất lúa cũng đã tạo ra nguồn phát thải gây hiệu ứng nhà kính, tác động xấu đến môi trường.
Áp lực phải thay đổi
Trong các nguồn phát thải thì sản xuất nông nghiệp chiếm 14%. Nguyên nhân là do ngoài việc lạm dụng phân hóa học, làm tỷ lệ phân thất thoát cao gây ô nhiễm đất và phát thải oxit nitơ (N2O), cộng thêm việc tưới tiêu không hợp lý, giữ nước thường xuyên trong ruộng gây phát thải khí metan (CH4) và đốt phụ phẩm, rơm rạ sau thu hoạch gây phát thải khí carbonic (CO2).
Theo các chuyên gia môi trường, các khí thải như CO2, CH4, N2O thải ra môi trường từ hoạt động sản xuất nông nghiệp ở mức cao hiện nay đang góp phần vào hiện tượng nóng lên của toàn cầu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
Mặt khác, ngay thời điểm hiện tại, vùng ĐBSCL đã và đang phải chịu tác động nặng nề do biến đổi khí hậu gây ra. Hiện nay, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn đang diễn biến vô cùng phức tạp, gây thiệt hại nặng cho ngành nông nghiệp.
Theo các chuyên gia ngành nông nghiệp, các tỉnh thành vùng ĐBSCL phải nỗ lực để dần thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp từ việc dựa trên khai thác tài nguyên, tận dụng lao động giá rẻ, gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến phát triển ngành nông nghiệp thiếu bền vững sang áp dụng các giải pháp công nghệ sinh học theo hướng tăng trưởng xanh, ít phát thải các - bon là yếu tố then chốt để phát triển bền vững, thân thiện với môi trường, thích nghi với biến đổi khí hậu.
Người dân vùng U Minh Thượng, Kiên Giang thu hoạch tôm
Và những nỗ lực
Ngay thời điểm hiện tại, để ứng phó với tình hình thời tiết khắc nghiệt nói trên, ngành nông nghiệp ở các địa phương vùng ĐBSCL đã và đang triển khai các giải pháp bằng việc hướng dẫn thời vụ và cơ cấu giống lúa cho từng tiểu vùng, nhằm né tránh và giảm thiệt hại do hạn mặn gây ra mà còn hoàn chỉnh gói kỹ thuật canh tác lúa thích ứng với hạn hán và xâm nhập mặn trong toàn vùng.
Từ năm 2011, Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và ở vùng ĐBSCL nói riêng, Chính phủ cũng đã đưa ra nhiều giải pháp lớn giúp cho khu vực ĐBSCL chủ động ứng phó với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, như việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi như mô hình “lúa - tôm” , “2 vụ lúa, 1 vụ màu”, “cánh đồng mẫu lớn”… Điều này cho thấy một bài toán đa mục tiêu về kinh tế, xã hội, môi trường đã được Chính phủ đặc biệt quan tâm triển khai cho vùng ĐBSCL.
Các mô hình đã giúp được nông dân sản xuất nông nghiệp bền vững, ổn định sinh kế, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, các phương thức canh tác tiên tiến cũng được triển khai như áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác trên đồng ruộng. Trong đó, ứng dụng các biện pháp “3 giảm, 3 tăng” (giảm lượng giống, thuốc trừ sâu, phân đạm; tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế) hay “1 phải, 5 giảm” hay kỹ thuật canh tác “1 phải, 6 giảm” (phải sử dụng giống xác nhận; giảm lượng hạt giống, giảm lượng phân bón thừa, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm nước tưới, giảm tổn thất sau thu hoạch và giảm phát khí thải nhà kính)… Từ đó, góp phần giảm phát thải ô nhiễm môi trường.
Qua những mô hình này, một bộ phận nông dân cũng thay đổi tư duy sản xuất, áp dụng KH-KT vào canh tác để sản xuất bền vững, tăng thêm thu nhập và bảo vệ môi trường. Có thể dẫn chứng dự án “Canh tác lúa giảm phát thải khí nhà kính”, là dự án tiên phong trong sản xuất “lúa xanh” dựa vào cộng đồng ở ĐBSCL đã đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực, giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường. Hiệu quả của dự án này đã được các nhà khoa học, nhà quản lý đánh giá cao sau khi được thí điểm 11 vụ tại 2 HTX ở tỉnh An Giang và Kiên Giang.
Trần Minh