Theo số liệu từ FiinTrade, từ đầu năm đến nay, khối ngoại đã bán ròng khoảng 23.200 tỷ đồng trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam. Với chuỗi 9 tháng bán ròng liên tiếp, dòng vốn này vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.
Bán ròng triền miên
Riêng trong tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài bán ròng hơn 3.500 tỷ đồng trên toàn thị trường. Đáng chú ý, trong phiên 5/12, khối ngoại đã bất ngờ bán ròng hơn 1.600 tỷ đồng, mạnh nhất trong gần 11 tháng (kể từ ngày 13/1). Tính từ đầu năm 2023, đây là phiên thứ 4, khối ngoại bán ròng trên 1.000 tỷ đồng.
Từ đầu năm đến nay, khối ngoại đã bán ròng khoảng 23.200 tỷ đồng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. |
Với giá trị bán ròng lên đến 5.164 tỷ đồng, EIB (Eximbank) là cổ phiếu dẫn đầu nhóm bị dòng tiền ngoại xả mạnh nhất. Dù cho phép tỷ lệ sở hữu tối đa nước ngoài ở mức 30% nhưng tỷ lệ nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ cổ phần tại nhà băng này đã giảm một mạch từ 18,92% xuống mức 2,73%, tương đương 47,7 triệu cổ phiếu.
Xếp sau EIB, giá trị bán ròng cổ phiếu VPB (VPBank) của khối ngoại kể từ đầu năm lên tới 3.447 tỷ đồng, mặc dù ngân hàng này đã nới room ngoại lên tối đa 30%.
Không giống 2 cổ phiếu ngân hàng trên là hoàn cảnh của CTCP Đầu tư Thế Giới Di Động (MWG). Trong nhiều năm, “ông lớn” ngành bán lẻ này luôn nằm trong danh mục cổ phiếu được các nhà đầu tư ngoại ưu ái, room ngoại cũng thường xuyên ở trạng thái kín chỗ. Để “săn” được cổ phiếu MWG, một số quỹ thậm chí từng chấp nhận trả mức giá chênh lệch (premium) lên đến 45% so với thị giá.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của nhà bán lẻ này gặp nhiều khó khăn gần đây được cho là nguyên nhân chính khiến các nhà đầu tư nước ngoài không còn “mặn mà” với cổ phiếu MWG. Với con số 3.287 tỷ đồng, giá trị bán ròng của khối ngoại tại Thế giới Di động chỉ xếp sau Eximbank và VPBank. Room ngoại tại doanh nghiệp theo đó hở ra gần 5% sau khi bị thu hẹp xuống còn 44,2%, tương đương 646,8 triệu cổ phiếu, mức thấp nhất của Thế giới Di động trong nhiều năm qua.
Thậm chí, Arisaig Asian Fund Limited - quỹ thành viên thuộc Arisaig Partners (Singapore), từng nhiều lần khẳng định việc đầu tư dài hạn và không có tư duy lướt sóng với cổ phiếu MWG, song đến giữa tháng 4, quỹ này bắt đầu có động thái giảm dần tỷ trọng MWG trong danh mục với lý do tái cơ cấu đầu tư.
Thời gian qua, vấn đề khối ngoại bán ròng vẫn được các chuyên gia phân tích, đánh giá kỹ lương. Có nhiều nguyên nhân lý giải cho động thái này như sự ảnh hưởng của việc tỷ giá tăng, tái cơ cấu danh mục. Một phần áp lực nữa được cho là đến từ xu hướng rút vốn đang diễn ra trên một số quỹ ETF lớn. Bên cạnh đó, hoạt động thoái vốn của những tổ chức nước ngoài là cổ đông lớn/cổ đông chiến lược tại doanh nghiệp cũng là yếu tố khiến đà bán ròng của khối ngoại tăng cao. Ngoài ra, định giá chưa thực sự hấp dẫn là một trong những nguyên nhân khiến khối ngoại đắn đo trong việc “gom hàng”.
Đâu là rào cản?
Dù vậy cũng phải nhìn nhận thực tế rằng, các yếu tố trên chỉ mang tính ngắn hạn và rất khó để lý giải cho xu hướng bán ròng đã kéo dài nhiều năm. Bởi lẽ, không chỉ năm 2023 mà suốt 4 năm qua, nhà đầu tư nước ngoài vẫn bán ròng triền miên, chỉ mua ròng ở một vài giai đoạn ngắn, chẳng hạn như thời điểm VN-Index rơi xuống đáy dài hạn cuối năm 2022.
Đáng chú ý, dù xả hàng liên tục trên TTCK nhưng vốn ngoại thực tế không rút khỏi các doanh nghiệp Việt Nam. Dòng vốn này vẫn đều đặn đổ vào thị trường qua các thương vụ mua cổ phần chiến lược trong những năm qua như thương vụ SMBC mua 15% cổ phần VPBank trong đợt chào bán riêng lẻ với giá trị khoảng 1,5 tỷ USD, Daytona Investments mua cổ phần Sữa Quốc Tế (IDP); Hana Securites trở thành cổ đông chiến lược của Chứng khoán BSC; ASKA Pharmaceutical liên tục tăng sở hữu tại Dược Hà Tây (DHT) qua các đợt chào bán riêng lẻ…
Bên cạnh đó, hoạt động mua bán và sáp nhập ngoài sàn cũng được nhà đầu tư nước ngoài thúc đẩy những năm gần đây. Chẳng hạn, AEON chi 180 triệu USD mua 100% vốn góp tại Công ty Tài chính TNHH MTV Bưu điện (PTF) từ SeABank; ESR bỏ ra 450 triệu USD mua cổ phần BW Industrial, Krungsri mua 50% vốn SHB Finance từ SHB,…
Hay như trong lĩnh vực chăm sức khoẻ, các thương vụ bắt tay giữa doanh nghiệp Việt và nhà đầu tư nước ngoài diễn ra rầm rộ như VinaCapital rót vốn vào Bệnh viện Thu Cúc; Dongwha Pharm mua lại 51% cổ phần Trung Sơn Pharma;…
Mặt khác, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam vẫn không ngừng chảy vào Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê, FDI đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/11/2023 đạt gần 28,85 tỷ USD. Lũy kế 35 năm, Việt Nam đã thu hút được gần 438,7 tỷ USD vốn FDI, trong đó 274 tỷ USD đã được giải ngân.
Có thể thấy, dòng vốn ngoại vẫn đổ vào Việt Nam nhưng “ngại” rót vào TTCK. Lý do được cho là bởi các lĩnh vực hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài như sản xuất, công nghiệp, công nghệ, y tế, chăm sóc sức khoẻ,… không có nhiều cổ phiếu trên sàn và tỷ trọng cũng rất hạn chế.
Trong khi đó, cơ cấu của TTCK Việt Nam gần như nghiêng hẳn về 2 nhóm tài chính và bất động sản với số lượng cổ phiếu và vốn hóa áp đảo khi chiếm hơn 57% vốn hóa toàn thị trường, cao hơn hẳn nhiều thị trường trong khu vực. Đây lại là 2 nhóm cổ phiếu có tính đầu cơ cao do đều phụ thuộc rất nhiều vào chu kỳ kinh tế và tăng trưởng tín dụng.
Với hai nhóm cổ phiếu này, dòng vốn ngoại chủ yếu lướt sóng, còn các nhóm có khả năng hút vốn ngoại bền vững lại có quá ít lựa chọn, một số thường xuyên trong tình trạng hết room.
Một số ý kiến đánh giá cơ cấu mất cân bằng khiến việc đa dạng các sản phẩm đầu tư trở nên khó khăn. Danh mục của các quỹ đầu tư chủ động lớn đều là những gương mặt quen thuộc. Các bộ chỉ số tham chiếu cho các quỹ ETF hầu hết cơ cấu chủ yếu gồm cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, do đó nhà đầu tư không có nhiều lựa chọn. Điều này khiến cho TTCK Việt Nam khó thu hút được dòng vốn ngoại mua qua sàn, mà nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn những phương thức khác.
Hải Giang