![]() |
Ảnh minh hoạ |
Đó là nhận định của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan tại cuộc họp về “Khái niệm Doanh nghiệp nhà nước và dự kiến sửa Luật Doanh nghiệp” được tổ chức mới đây.
Theo báo cáo của Chính phủ, đến tháng 10/2018, cả nước có 526 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và 294 công ty cổ phần do các bộ, UBND tỉnh/thành phố quản lý. Nhưng theo số liệu của Tổng cục Thống kê đầu năm 2018 thì cả nước có 1.204 DN 100% vốn nhà nước và 1.282 công ty cổ phần cổ phần nhà nước chiếm trên 50%.
Lý giải cho sự chênh lệch về số liệu thống kê này, các chuyên gia cho rằng, hiện nay có nhiều cách hiểu về DNNN khiến cho thống kê số lượng DNNN khác nhau và dẫn đến nhiều hạn chế trong cách quản lý khối DN này, thậm chí cản trở hoạt động của DN.
Theo quan điểm của giới chuyên gia, có 2 vấn đề cần được làm rõ, thứ nhất là nội hàm của các khái niệm. Chẳng hạn như vốn nhà nước, khái niệm cũng cần phải làm rõ; thứ hai, đánh giá tác động có thể có nếu khái niệm DNNN được thay đổi, kể cả đối với các hiệp định tự do thương mại như Hiệp đinh Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Ông Lê Song Lai, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước cho rằng việc sửa đổi khái niệm DNNN sẽ mở rộng phạm vi, đối tượng được áp dụng và thay đổi cách quản trị của các DNNN.
Mặt khác, hiện nay, số lượng DNNN kinh doanh thua lỗ vẫn đang rất lớn, một số tập đoàn luôn trong tình trạng đói vốn, không sinh lợi. Theo số liệu giám sát của Quốc hội, tỷ suất lợi nhuận của DNNN giảm trong giai đoạn 2011-2016: Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) giảm 39%; Chỉ số lợi nhuận trên vốn (ROA) giảm 30%.
Từ đây đặt dấu hỏi lớn về việc giám sát khối DN này như thế nào?
Ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) từng đưa ra dẫn chứng: giai đoạn 2011-2016, tỷ trọng DNNN thua lỗ không giảm. Việc xử lý các dự án, DN kém hiệu quả đã có nhiều nỗ lực nhưng phục hồi chậm.
Theo ông Hiếu, cơ chế giám sát DNNN hiện chưa hiệu quả. Nguyên nhân đầu tiên là bởi Việt Nam hiện có nhiều khái niệm về giám sát, đánh giá, thanh tra kiểm tra nhưng thực tế thì không phân biệt rạch ròi các khái niệm này. Các quy định hướng dẫn chi tiết về cách thức, công cụ giám sát là chưa rõ ràng. Điều này dẫn tới lúng túng trong tổ chức thực hiện, ảnh hưởng tới hiệu quả giám sát.
Chẳng hạn, Bộ Công Thương chịu trách nhiệm giám sát kiểm tra thanh tra với một DN. Tuy nhiên, để làm được việc này, Bộ Công Thương phải phối hợp với ít nhất 4 đơn vị khác là: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ.
Giới chuyên gia cho rằng, việc giám sát DNNN vẫn mang nặng tính phân mảnh và thiếu thống nhất.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan phân tích có quá nhiều cơ quan giám sát nhưng DNNN vẫn làm ăn không hiệu quả là hệ quả của lối làm ăn tập thể. Mỗi văn bản ban hành ra có rất nhiều ý kiến tham gia, nhưng không rõ trách nhiệm của công việc giám sát, thanh tra, kiểm toán…, nên các cơ quan không hiểu nhiệm vụ của mình là gì, dễ buông lơi, không làm, dễ đổ trách nhiệm.
"Nhiều cơ quan chủ sỡ hữu nhưng không ai chịu trách nhiệm giám sát DN. Không tách bạch được một bên chủ sở hữu tài sản nhà nước và một bên là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành nên cùng công việc giám sát chia nhiều bộ, ngành nhưng làm công việc na ná nhau", bà Lan nói.
Thanh Hoa