Theo thống kê 10 tháng đầu năm 2015, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với 36,3% thị phần, tăng 7% về khối lượng nhưng giảm 1,54% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014.
Trong vòng 5 năm trở lại đây, Trung Quốc đã nổi lên thành nước nhập khẩu gạo hàng đầu, tuy nhiên, theo Ts. Phạm Quang Diệu, Phó trưởng phòng Kinh tế nông thôn, Viện Kinh tế Việt Nam, sự nổi lên này đặt ra câu hỏi xu hướng trên sẽ gây ra những tác động thế nào đến an ninh lương thực của Việt Nam?
Thị trường dễ “nóng lạnh”
Ts. Diệu phân tích, số liệu của hải quan Trung Quốc cho thấy nhập khẩu gạo nước này tăng mạnh kể từ năm 2010. Tuy nhiên, nguồn số liệu ước tính của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cho rằng con số thực tế nhập khẩu của Trung Quốc từ 2012 cao hơn nhiều con số công bố phía Trung Quốc.
Còn số liệu của Hải quan Việt Nam cho thấy, kể từ năm 2012, Việt Nam đã xuất khẩu xấp xỉ 2 triệu tấn gạo sang thị trường Trung Quốc. Mức này tiếp tục được duy trì trong vòng 4 năm trở lại đây. Lượng gạo xuất khẩu thực tế sang Trung Quốc chắc chắn lớn hơn nhiều.
Ts. Phạm Quang Diệu cho rằng các ước tính được tuyên bố của lãnh đạo Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) hay các quan chức Bộ Công Thương đều cho thấy hàng năm, Việt Nam xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc vào khoảng 1,5 triệu tấn gạo.
Sự nổi lên của Trung Quốc có thể được nhìn nhận như cơ hội kinh doanh cho ngành xuất khẩu gạo Việt Nam. Tuy nhiên, Ts. Diệu cũng khẳng định rằng sẽ có thách thức như phần lớn gạo xuất đi Trung Quốc, đặc biệt xuất tiểu ngạch, là gạo phẩm cấp thấp, không có giám định chất lượng ngặt nghèo. Đây là cái bẫy cho ngành gạo Việt Nam trong trung và dài hạn.
Trung Quốc không bao giờ công bố về nhu cầu thực tế do lo ngại thị trường phản ứng, giá tăng. Do đó, dường như Trung Quốc đang vận dụng cơ chế tiểu ngạch với Việt Nam và Myanmar để tạo ra nguồn cung gạo có lợi nhất cho họ về mặt giá.
Thêm vào đó, Trung Quốc nhập khẩu không theo một kênh thông thường như các nước Philippines, Cu Ba, Iraq hay các nước khác. Thông thường, doanh nghiệp nước ngoài ký hợp đồng nhập khẩu qua các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp sẽ thông qua mạng lưới hàng xáo để thu mua của dân. Còn đối với Trung Quốc, ngoài việc nhập khẩu chính ngạch, doanh nghiệp Trung Quốc còn trực tiếp mua gạo của nông dân thông qua mạng lưới riêng.
Trong trường hợp Trung Quốc tăng mạnh nhập khẩu gạo thì tác động sẽ rất nhanh và khó dự đoán. Một lượng nhập khẩu lớn trong khoảng thời gian ngắn sẽ là cơ hội để tăng giá, đem lại thu nhập cho một bộ phận kinh doanh và người nông dân. Tuy nhiên, xu hướng này sẽ khiến doanh nghiệp Việt Nam bị động, gây ra biến động của giá thị trường, tăng nguy cơ rủi ro kinh doanh.
Về mặt chính sách, Chính phủ Việt Nam chưa có cơ chế kiểm soát hữu hiệu xuất khẩu tiểu ngạch để có thể nắm được diễn biến cung cầu, từ đó có được các giải pháp chính sách kịp thời.
“Chúng ta cần những tính toán chiến lược về sự nổi lên của nhu cầu lương thực của Trung Quốc và phương thức thương mại tiểu ngạch để có các cơ chế chính sách hiệu quả”, Ts. Phạm Quang Diệu kiến nghị.
Ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), cũng cho rằng gạo của Việt Nam đang phụ thuộc quá lớn vào thị trường dễ “nóng-lạnh” như Trung Quốc. Trong khi đó, ngoài đối thủ lớn là Thái Lan, xuất khẩu gạo Việt Nam cũng đang phải cạnh tranh mạnh với Ấn Độ, Pakistan, Hoa Kỳ, Myanmar.
![]() |
Xu hướng đẩy mạnh tối đa lượng xuất khẩu gạo như là một thành tích lớn cho tăng trưởng thương mại trước đây đã không còn phù hợp ở thời điểm hiện nay.
Cần từ bỏ tư duy “thành tích”
Hiện nay, Việt Nam đang tồn tại song song hai kênh xuất khẩu gạo vô cùng đối nghịch. Một là, kênh xuất khẩu gạo chính ngạch qua các cảng – một kênh xuất khẩu hiện đại, đại diện cho công nghệ, cho phương thức thanh toán LC qua ngân hàng. Và một kênh khác, mà hình ảnh điển hình là một đoàn người cầm từng bao gạo chuyển qua cửa khẩu biên giới, và quay trở lại với các bao phân bón. Một kênh xuất khẩu rải từ vùng tập kết (các cảng An Giang, Cần Thơ), cảng Hải Phòng đến vùng biên giới phía bắc qua Lào Cai, Cao Bằng và qua các cửa khẩu chính và lối mở sang Trung Quốc.
Bình luận về kênh xuất khẩu này, Ts. Diệu nói: “Một kênh xuất khẩu qua nhiều khâu trung gian, với chi phí lớn, rủi ro nhiều, và công lao động thì vô kể, nhưng vẫn tồn tại, chứng tỏ nó phải có một khoản lợi nhuận rất lớn. Trong bao nhiêu năm ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ, rồi WTO, hình thức này vẫn được duy trì. Liệu với TPP sắp tới, hình thức này có còn tồn tại?”.
Theo nhận định của VFA, năm nay, Trung Quốc dự kiến nhập khẩu 4 triệu tấn gạo (trong đó họ đã ký thỏa thuận với Thái Lan 2 triệu tấn) và có khả năng lớn hơn. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng đã đến lúc cần phải cải thiện tư duy, không nên coi thành tích xuất khẩu lúa gạo là vấn đề ưu tiên, thay vào đó, cần giải phóng nguồn lực đất đai.
Việc giải phóng một diện tích lớn đất trồng lúa sẽ tạo nguồn lực mới giúp đa dạng hóa kinh doanh khu vực nông thôn vào các lĩnh vực đem lại thu nhập cao hơn. An ninh lương thực cũng như thành tích xuất khẩu gạo khi không còn là một mục tiêu quan trọng sẽ giúp ngành nông nghiệp Việt Nam tạo thêm các cơ hội phát triển mới.
Lê Thúy
Ts. Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Gạo của Việt Nam đang còn được trợ cấp rất nhiều, bởi vậy, khi quá chú trọng chạy theo sản lượng, xuất khẩu ồ ạt, vô hình trung, chúng ta lại trợ cấp cho chính người tiêu dùng nước ngoài. Đã đến lúc cần thay đổi tư duy, thận trọng đối với chiến lược xuất khẩu gạo, bởi quá chú trọng về sản lượng cũng đồng nghĩa là ngành lúa gạo tự đẩy mình vào thế khó như thực tế đã và đang diễn ra. Bà Phan Thị Thu Trang - Trưởng đại diện Công ty Lương thực – Thực phẩm An Giang Hiện, xuất hiện rất nhiều thương lái Trung Quốc lợi dụng những doanh nghiệp uy tín của Việt Nam mua sản phẩm kém chất lượng sau đó gắn mác hàng chất lượng cao để thu lợi bất chính. Họ tìm đến mình rồi bảo muốn mua gạo 4900, loại gạo thơm nhưng chất lượng thấp hơn gạo Jasmine, khi xuất hàng, họ lại bảo mình để chứng từ là gạo Jasmine hoặc đề nghị mình trộn cái này với cái kia. Ts. Phạm Quang Diệu - Phó trưởng phòng kinh tế nông thôn, Viện kinh tế Việt Nam Trong một môi trường nhiều biến động như hiện nay, Nhà nước không có vai trò, không thể cung cấp dự báo thị trường. Chỉ có doanh nghiệp mới phát tín hiệu hiệu quả nhất để điều tiết nông dân sản xuất. Việt Nam cần có các chương trình yểm trợ về đào tạo, tư vấn cũng như xúc tiến thương mại để gây dựng được lực lượng doanh nghiệp đủ năng lực khai thác hiệu quả thị trường Trung Quốc. |