Mới đây, lô hàng cá ngừ đại dương Việt Nam, lô thứ hai của đề án Tổ chức khai thác, bảo quản, thu mua, xuất khẩu cá ngừ theo chuỗi của tỉnh Bình Định, do Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA hỗ trợ, đã được đấu giá thành công tại tỉnh Osaka, Nhật Bản với mức cao nhất, đến 1.600 yên/ký (tương đương khoảng 305.000 đồng/kg).
Còn nhiều bất cập
Đây là tín hiệu mới để nâng cao chất lượng cá ngừ đại dương của Việt Nam nhằm tham gia bán đấu giá tại Nhật Bản trong tương lai. Tuy nhiên, theo đánh giá, giá vận chuyển cá ngừ đúng chuẩn bằng máy bay từ Việt Nam sang Nhật khá cao.
Trong khi đó, mỗi đợt 25 tàu đánh bắt theo kiểu Nhật mang về đất liền hàng chục tấn cá nhưng chỉ lọc ra được vài trăm kilô cá có chất lượng tốt nhất xuất khẩu để làm quen với thị trường Nhật Bản.
Điều đó cho thấy việc xuất khẩu theo phương thức này thực tế chưa mang lại lợi nhuận như mong đợi. Và việc loay hoay phương thức nhằm mang lại lợi nhuận tốt nhất cho xuất khẩu cá ngừ Việt Nam vẫn còn là một bài toán nan giải.
Giới chuyên gia nhận định, sản phẩm cá ngừ đã trở thành mặt hàng thủy sản xuất khẩu đứng thứ ba của Việt Nam sau tôm và cá ba sa nhưng khâu tổ chức khai thác, thu mua, chế biến cá ngừ đại dương còn manh mún, công nghệ bảo quản sản phẩm sau thu hoạch chưa chú trọng.
Theo thống kê, cả nước hiện có khoảng 144 công ty chế biến và xuất khẩu cá ngừ. Trong đó có 16 công ty lớn với công suất trên 1.000 tấn cá ngừ/năm và chiếm tới 85% tổng sản lượng xuất khẩu.
Ts Nguyễn Thanh Tùng, Viện Kinh tế và Quy hoạch thuỷ sản, cho biết các tác nhân này thông qua các cơ sở thu mua, nậu vựa để thu mua nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
Bên cạnh lượng cá ngừ mua trong nước, các doanh nghiệp (DN) còn nhập một lượng lớn cá ngừ từ nước ngoài về tái chế biến xuất khẩu (trên 50%). Ước tính hiện nay, cả nước có 3.600 tàu với hơn 35.000 ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương, chủ yếu tập trung ở ba tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Sản lượng đánh bắt mỗi năm đạt khoảng 17.000 tấn.
Điều đáng nói là mỗi năm dù ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương đạt số lượng lớn nhưng các DN trong nước vẫn phải nhập khẩu thêm từ 4.000 đến 5.000 tấn cá loại này để chế biến đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Một vấn đề cũng khá nan giải là yêu cầu về các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực ở các nước nhập khẩu rất cao, nhất là thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mỹ. Do vậy, rất khó khăn cho cả người khai thác và các nhà chế biến đáp ứng được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt này.
![]() |
Loay hoay phương thức nhằm mang lại lợi nhuận tốt nhất cho xuất khẩu cá ngừ.
Cần liên kết theo chuỗi
Việc truy xuất nguồn gốc ở khâu khai thác và thương mại cũng là một vấn đề tồn tại lớn do hầu hết các tàu khai thác cá ngừ của Việt Nam là tàu nhỏ. Các tác nhân khai thác này không đủ tiềm lực về tài chính để chứng minh và đánh giá về hoạt động đánh bắt của họ. Do vậy, rất khó để truy xuất việc đánh bắt cá ngừ này, trong khi đây là một yêu cầu bắt buộc khi xuất sang thị trường EU.
Theo ông Nguyễn Văn Việt, Uỷ viên Ban chấp hành Hiệp hội cá ngừ tỉnh Bình Định, đặc thù ngư trường nghề khai khác cá ngừ đại dương rất xa bờ, ở vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Muốn đưa được sản lượng vào bờ, tàu phải chạy từ 50 giờ đến 100 giờ, chưa kể gặp phải thời tiết xấu.
Do ngư trường xa, thời gian đi biển dài ngày nên chất lượng cá giảm, đặc biệt là khó xuất khẩu dạng ăn tươi sashimi (thực tế thịt cá bị cháy khoảng 10%). Có một thực tế khó khăn khác là công nghệ bảo quản lạc hậu ở khâu khai thác chính là một trong những tồn tại lớn nhất làm giảm chất lượng sản phẩm và gia tăng tổn thất của ngành hàng cá ngừ Việt Nam.
Bên cạnh đó, chưa có các quy định quốc gia hay các tiêu chuẩn chất lượng liên quan đến việc giết mổ và sơ chế trên tàu cũng là vấn đề cần được tháo gỡ. Cũng theo Ts Nguyễn Thanh Tùng, lĩnh vực xuất khẩu cá ngừ vẫn còn thiếu sự hợp tác, liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị. Đặc biệt có sự cạnh tranh giữa các ngư dân trong việc khai thác cá ngừ có chất lượng cao dẫn đến việc chia sẻ các thông tin về ngư trường rất hạn chế.
Ở một số địa phương, sự chi phối lớn của các cơ sở thu mua, nậu vựa làm hạn chế sự hợp tác giữa những người đánh bắt và các nhà chế biến xuất khẩu. Do vậy, các hợp đồng giữa tác nhân khai thác và chế biến xuất khẩu hầu như không có.
Theo giới chuyên gia, nên xây dựng và thực hiện quy hoạch tổng lượng tàu thuyền đang khai thác thủy sản, trong đó có nghề khai thác cá ngừ đại dương phù hợp với nguồn lợi.
Hiện nay, số lượng tàu thuyền phát triển tự phát, ngày càng gia tăng dẫn đến sản lượng ngày càng giảm sút. Ông Nguyễn Văn Việt kiến nghị cần quy hoạch lại sản xuất cá ngừ theo chuỗi giá trị hàng hóa và nên tạo cho DN, ngư dân tìm ra tiếng nói chung về cách khai thác, sơ chế, thu mua, chế biến, xuất khẩu.
Thanh Loan