Trong vấn đề sản xuất nông sản, theo nhận định của nhóm chuyên gia từ Ngân hàng Thế giới (WB), hợp đồng nông sản tại Việt Nam kém phát triển hơn rất nhiều so với các nước khác, nơi các hộ nông dân nhỏ giữ vai trò nổi bật trong chuỗi giá trị hàng hóa.
Nhìn chung, giới chuyên gia WB cho rằng có rất ít hình thức hợp tác trong thu mua nông sản ở Việt Nam. Liên kết trực tiếp giữa doanh nghiệp (DN) chế biến – xuất khẩu với nông dân còn ít, trừ ngành nuôi trồng thủy sản. Trong hầu hết chuỗi giá trị vẫn tồn tại nhiều khâu trung gian.
“Bắt bệnh” trái cây Việt
Theo ông Nguyễn Lộc An – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công Thương, ở Việt Nam cơ bản sản xuất nông nghiệp còn phân tán, nhỏ lẻ và lạc hậu nên hoạt động thu mua của thương nhân cũng nhỏ lẻ, phân tán. Phần lớn nông sản được tiêu thụ thông qua hợp đồng miệng, chỉ khoảng 10% được tiêu thụ qua hợp đồng chính thức, nên dễ xảy ra rủi ro.
Bên cạnh đó, sản xuất còn phân tán, chưa theo tín hiệu thị trường, chưa lấy DN tiêu thụ làm hạt nhân nên hiện tượng “được mùa, mất giá” vẫn diễn ra. Nếu còn sản xuất như hiện nay, tình trạng dư cung sẽ tái diễn và giải pháp tức thời vẫn là “giải cứu”.
Trở lại câu chuyện làm sao để sản xuất nông sản Việt “lột xác”, tránh được “khủng hoảng” của ngành chăn nuôi, chuối, hay dưa hấu, tỏi… như thời gian gần đây, thiết nghĩ điều đầu tiên nên làm là tìm ra những điểm “tử huyệt” trong lĩnh vực sản xuất trái cây – một điển hình của sản xuất nông sản.
Theo giới chuyên gia, sản xuất và lưu thông phân phối trái cây vẫn chưa theo chuỗi giá trị, đang bị cắt khúc, nên dù nông dân bán ra với giá chưa cao song người tiêu dùng vẫn phải mua với giá rất cao. Chẳng hạn như xoài cát Hòa Lộc loại 1, hay bưởi Da xanh loại 1 tới 50.000 – 70.000 đồng/kg, sầu riêng Ri-6 tới 100.000 đồng/kg, cao hơn cả giá trái cây Thái Lan.
Về xuất khẩu hiện nay, theo PGs.Ts. Nguyễn Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam, tuy đã có nhiều công ty xuất khẩu trái cây, nhưng Việt Nam chưa có một công ty xuất khẩu nào có thương hiệu trên thế giới như một số nước Ví dụ, New Zealand có công ty Zespri chuyên xuất khẩu trái Kiwi, Mỹ có công ty Dole chuyên lo xuất khẩu chuối già, dứa, xoài. Trong khi đó, xuất khẩu trái cây Việt Nam hiện đang do rất nhiều công ty nhỏ “đảm nhiệm” bằng cách hạ giá để cạnh tranh với nhau.
Việc này khác hoàn toàn với mô hình một công ty lo xuất khẩu từ A đến Z, một hoặc hai mặt hàng của New Zealand, hay của Mỹ. Cụ thể, họ phải tự tổ chức sản xuất, đóng gói, xuất khẩu và cả tiếp thị quảng bá sản cạnh tranh hạ giá, không có việc chất lượng không đồng đều và cũng không có việc mạnh ai nấy đi tiếp thị sản phẩm như Việt Nam đang làm.
![]() |
Phần lớn nông sản được tiêu thụ qua hợp đồng miệng, chỉ khoảng 10% tiêu thụ qua hợp đồng chính thức, nên dễ xảy ra rủi ro
“Bánh” hay “mồi” ngon?
Về sản xuất, theo PGs.Ts. Nguyễn Minh Châu, do nông dân chưa liên kết sản xuất nên khó có số lượng lớn, đồng đều chất lượng và được dán cùng một logo. Không có logo sẽ phải bán rẻ và giá bấp bênh. Dẫn tới, đóng gói trái cây trước khi vận chuyển tiêu thụ ngay trong nước hiện nay còn quá kém, thua các nước phát triển đến vài chục năm nên chịu tỷ lệ hao hụt lớn.
Trong khi đó, ở Nhật Bản và Hàn Quốc, trái cây được phân loại, đóng gói theo kích cỡ trái và độ ngọt của từng trái. Bên ngoài thùng trái cây của họ có ghi rõ chất lượng trái trong thùng; trái cam, trái quýt, trái dưa hấu nếu là trái to và ngọt hơn sẽ được bán với giá cao hơn tại hai thị trường này.
Theo giới chuyên gia, hạn chế lớn và tồn tại quá lâu mà ai cũng biết chính là Việt Nam vẫn chưa có vùng chuyên canh sản xuất lớn. Tuy vẫn nói cần phải liên kết 4 nhà, nhưng thực tế mối liên kết rất yếu do không có nhà nào “cầm trịch” làm chủ trì, đóng vai trò “đốc công” để sản xuất “ra ngô ra khoai”.
Điều này cho thấy, nếu có chuỗi giá trị tốt hơn, người tiêu dùng đã không phải trả giá cao như vậy và đầu ra trái cây đã không phải chịu cảnh được mùa, mất giá.
Do đó, giới chuyên gia khuyến nghị, nên tổ chức lại sản xuất nông sản theo hướng Nhà nước hỗ trợ tích cực hơn nữa, thể hiện rõ vai trò “nhạc trưởng” để hình thành vùng chuyên canh lớn, tạo sự tin tưởng để nông dân liên kết với nhau từ sản xuất đến tiêu thụ, giúp đưa sản phẩm vào các siêu thị trong nước như kiểu Nhật Bản đã làm. Kinh nghiệm của Nhật Bản là Nhà nước phải làm vai trò kết nối 3 nhà còn lại. Bên cạnh đó, tư duy về lợi thế cần được thể hiện tổng thể theo chiến lược quốc gia, vùng miền nhằm tạo ra sức cạnh tranh mạnh hơn là chỉ quanh quẩn trong mỗi địa giới hành chính tỉnh, huyện như hiện nay.
Ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế (Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ) bày tỏ: “chiếc bánh nông sản” với những lợi thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi cho ngành trồng trọt, chăn nuôi các sản phẩm chủ lực là lúa gạo, trái cây, thủy sản của Việt Nam cần được “chế biến” thành những “chiếc bánh” ngon hơn, bán giá cao hơn, lãi hợp lý hơn cho những người làm ra chúng. Nông sản có phát huy được lợi thế cạnh tranh hay không là phải bằng chính tư duy, tầm nhìn và cách làm. Nếu không, “chiếc bánh ngon” của mình có thể thành miếng mồi ngon của thiên hạ.
Ngoài ra, trong việc quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp theo vùng, theo quy mô liên kết vùng cũng cần dựa trên cơ sở gắn với cung – cầu của thị trường. Các địa phương cần tạo môi trường thuận lợi để thiết lập và tăng cường các mối liên kết giữa DN với DN, giữa DN với người dân, giữa người dân với người dân, nhằm tổ chức, hình thành mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm chặt chẽ hơn.
Thế Vinh