Báo cáo “Rà soát pháp luật Việt Nam với cam kết EVFTA trong lĩnh vực Hải quan” được VCCI công bố ngày 10/3/2016 đã đưa ra kết luận như vậy trong buổi công bố kết quả rà soát và Đề xuất điều chỉnh từ góc độ lợi ích của doanh nghiệp.
Theo đánh giá của Báo cáo, pháp luật Việt Nam gần như đã tương thích với EVFTA, chỉ trừ hai điểm là yêu cầu không phân biệt đối xử với DNVVN trong thủ tục hải quan ưu tiên (chế độ DN ưu tiên) và yêu cầu mỗi giấy tờ hành chính chỉ phải nộp một lần.
Khó thông quan không vì…hải quan?
Lý giải nguyên nhân vì sao thủ tục hải quan Việt Nam “đã tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế mà doanh nghiệp vẫn kêu ca”, ông Phạm Thanh Bình, chuyên gia hải quan cao cấp, cho biết: “Theo nghiên cứu của chúng tôi, nguyên nhân nằm ở vấn đề liên quan đến thủ tục quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa XNK”.
Cụ thể, thủ tục thông quan hàng hóa không chỉ có mỗi thủ tục hải quan mà gồm một chuỗi các thủ tục liên quan cả chục bộ quản lý chuyên ngành và nhiều khâu dịch vụ XNK khác, được điều chỉnh bởi các hệ thống pháp luật quản lý chuyên ngành khác nhau (kiểm tra chất lượng, an toàn thực phẩm, kiểm dịch,…).
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, tỷ lệ lô hàng XNK phải kiểm tra chuyên ngành chiếm 30%-35% tổng số lô hàng XNK, thời gian làm thủ tục kiểm tra chuyên ngành và các thủ tục khác (ngoài thủ tục hải quan) chiếm 72% tổng thời gian làm thủ tục thông quan hàng hóa. Vì vậy, cản trở chính của quá trình thông quan hiện nay lại nằm ở khâu kiểm tra chuyên ngành.
Ông Phạm Thanh Bình đánh giá, quản lý rủi ro trong thông quan hàng hóa là phương pháp hiện đại, nhưng chưa mang lại hiệu quả. Hàng hóa của doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật vẫn bị phân vào luồng vàng, luồng đỏ.
Mặt hàng nào thuộc diện quản lý chuyên ngành (kiểm dịch, kiểm tra chất lượng, an toàn thực phẩm…) cũng bị phân vào hai luồng này, bị nhiều lần kiểm tra, mỗi lần hàng chục lô và thời gian kiểm tra kéo dài.
Theo bà Đặng Phương Dung – Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), việc xếp hàng hóa vào luồng xanh hay luồng vàng, luồng đỏ gần như không có tiêu chí rõ ràng.
“Doanh nghiệp của chúng tôi tự nhiên thấy hàng hóa bị chuyển sang luồng đỏ hết mà không hiểu lý do vì sao. Các bộ phận trong doanh nghiệp đều phải tốn thời gian, công sức vật lộn tìm hiểu lý do và tăng chi phí, xong xuôi thì hàng trở lại luồng xanh. Doanh nghiệp rất băn khoăn về quản lý rủi ro. Nếu không cải tiến, chúng tôi không biết làm thế nào để hoàn thành thủ tục hải quan”- đại diện Vitas thẳng thắn chia sẻ.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân của tình trạng này là do quy định lấy mặt hàng làm tiêu chí quản lý rủi ro. Đặc biệt, những mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành đều thuộc diện quản lý rủi ro nên bị phân vào luồng vàng, luồng đỏ, bị kiểm tra nhiều lần và chậm thông quan.
Nêu vướng mắc gặp phải trong lĩnh vực dệt may, bà Đặng Phương Dung cho biết, hàng may mặc xuất khẩu không có nhãn “Made in Vietnam” trên sản phẩm, ghi nhãn theo hợp đồng với khách hàng nước ngoài, thực hiện đúng khoản 3 điều 5 Nghị định 89/2006/NĐ-CP nhưng vẫn bị hải quan bắt lỗi, phạt vi phạm hành chính. Việc này đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, làm tăng chi phí và kéo dài thời gian xuất hàng.
“Hiện nay, việc kiểm ra chuyên ngành vẫn được thực hiện với mọi lô hàng và tại thời điểm làm thủ tục thông quan hàng hóa. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành cao và thời gian thông quan mới lâu như vậy. Điều này cho thấy nếu không xử lý đồng bộ các hệ thống pháp luật này mà chỉ riêng pháp luật hải quan là chưa đủ, không thể tạo được thuận lợi thương mại”, ông Bình khẳng định.
![]() |
Nếu không xử lý đồng bộ các hệ thống pháp luật mà chỉ riêng pháp luật hải quan là chưa đủ, không thể tạo được thuận lợi thương mại.
Ưu tiên rồi vẫn... vướng
Về vấn đề DN ưu tiên, Báo cáo cho rằng quy định mức kim ngạch khiến các DNVVN không thể tiếp cận cơ chế ưu tiên. Các quy định tiêu chí “doanh nghiệp công nghệ cao” và “hàng hóa nhập khẩu cho dự án trọng điểm” tạo ra phân biệt đối xử giữa các chủ thể liên quan cũng như chưa tuân thủ yêu cầu bắt buộc của EVFTA. Từ đó, các chuyên gia đề xuất giảm mức kim ngạch xuống cho phù hợp với năng lực xuất nhập khẩu trung bình của đa số các DNVVN.
Quy định mức kim ngạch hoặc số lượng dịch vụ thực hiện mỗi năm cũng là cách làm của nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…Tuy nhiên, việc quy định các mức kim ngạch khác nhau lại là cách làm riêng của Việt Nam với mục đích chính là tạo cơ hội cho các DNVVN.
Cơ chế ưu tiên, một mặt giúp giành nhiều thuận lợi cho DN, mặt khác đòi hỏi DN phải đáp ứng nhiều điều kiện nghiêm ngặt, nhất là yêu cầu về ý thức và năng lực tuân thủ pháp luật, về phương pháp quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp…
“Việc này sẽ tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia vào được chuỗi giá trị và hỗ trợ các doanh nghiệp này trở thành các doanh nghiệp ưu tiên trong tương lai”, Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI nói.
EVFTA cũng đề nghị hải quan Việt Nam cần nới rộng thêm danh sách DN ưu tiên trong nước nếu xét thấy những DN nào có lịch sử nhiều lần thực hiện tốt các quy định hải quan thì nên tạo điều kiện cho DN đó trở thành DN ưu tiên.
Tính đến tháng 7/2015, nước ta chỉ có 38 DN ưu tiên/50 nghìn DN có hoạt động XNK. Số lượng các DN ưu tiên như vậy là quá nhỏ tính trên tổng số danh nghiệp XNK. Tuy vậy, 38 DN này lại chiếm tới 25% kim ngạch xuất khẩu. Chẳng lẽ trong 50.000 chủ thể hoạt động lại chỉ có gần 40 doanh nghiệp tuân thủ tốt pháp luật hải quan?
Tuy vậy, có ý kiến chuyên gia cho biết không phải cứ thành DN ưu tiên là việc thông quan đã được dễ dàng. Bằng chứng là ngày 29/1/2016, Tổng cục hải quan phải tổ chức một cuộc họp riêng với các DN ưu tiên để “gỡ vướng” vì ưu tiên rồi mà vẫn còn khó khăn đủ đường như: phân nhầm luồng, yêu cầu hồ sơ giấy (thay vì hồ sơ điện tử)…
Phương Nguyên
Ông Phạm Thanh Bình - Chuyên gia Hải quan cao cấp Về ý kiến cho rằng “không áp dụng điều kiện kim ngạch đối với doanh nghiệp công nghệ cao” (khoản 5) và “áp dụng chế độ ưu tiên đối với hàng hóa nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư trọng điểm đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản” (khoản 6 Điều 10 Nghị định 08/2015/NĐ-CP) là phân biệt đối xử và đề xuất bãi bỏ các quy định này, điều này không đúng. Đây là những lĩnh vực Nhà nước đặc biệt khuyến khích phát triển, việc ưu tiên cho các DN này không ảnh hưởng lợi ích, không tạo áp lực cạnh tranh cho các DN khác nên không thể coi là phân biệt đối xử. Bà Phạm Thị Thanh Hiền - Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Tổng cục Hải quan Các cam kết liên quan đến các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, trong đó có những quy định do nhiều cơ quan, bộ ngành liên quan ban hành mà Hải quan là cơ quan thực thi. Do vậy, để những biên pháp thực sự phát huy hiệu quả, cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan với một cơ chế phối hợp phù hợp. Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI Ý thức được rằng những nỗ lực cải cách thủ tục hành chính, thủ tục hải quan của Việt Nam không chỉ là để thực hiện các cam kết Hiệp định thương mại tự do mà phải xuất phát từ chính những lợi ích thiết thực của doanh nghiệp thì ta mới có động lực, quyết tâm đổi mới. |