Theo thống kê của Viện Hợp nhất, Mua lại và Liên kết (IAMM) Hoa Kỳ, năm 2015, Việt Nam có 535 thương vụ mua bán sáp nhập (M&A), trong đó M&A thuộc ngành bán lẻ đã chiếm khoảng 36% tổng giá trị thương vụ.
Thương vụ chuyển nhượng BigC Việt Nam hơn 1 tỷ USD giữa Tập đoàn Casino (Pháp) với Central Group (Thái Lan) được xem như điển hình nhất trong M&A năm 2016 của khối bán lẻ ngoại.
Kẽ hở dành cho khối ngoại
Trên thực tế, sự gia tăng đột biến về số lượng các nhà bán lẻ nước ngoài gia nhập thị trường, các cơ sở bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài mới được mở và các vụ sáp nhập – hợp nhất – mua lại cổ phần có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong khoảng ba năm gần đây đã khiến ngành bán lẻ trở thành một hiện tượng điển hình cho đầu tư nước ngoài và M&A ở Việt Nam.
Cũng từ đây, ngoài lo lắng ngành bán lẻ nội địa trước nguy cơ bị "thôn tính" bởi khối ngoại, nhân việc Tổng cục Thuế loay hoay đòi BigC Việt Nam phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp khoảng 3.600 tỷ đồng sau thương vụ M&A, đang cho thấy những kẽ hở pháp lý mà khối bán lẻ ngoại tìm cách tận dụng.
Đó là chưa kể, sau khi đổi chủ mới thuộc về Central Group (Thái Lan), BigC Việt Nam tìm cách làm khó để hàng Việt không vào trong hệ thống của họ trong sự chống trả yếu ớt của các DN trong nước.
Ông Phạm Trung Kiên, Phó Tổng Giám đốc Saigon Co.op, lưu ý có những tập đoàn bán lẻ nước ngoài rất dễ chuyển nhượng, trong khi lại được sự hỗ trợ từ chính sách thuế, đất đai.
Theo ông Kiên, mới tham gia thị trường bán lẻ Việt Nam chừng 10 – 15 năm nhưng nhiều tập đoàn bán lẻ ngoại đã đem bán, kiếm lời rất nhiều nhưng mình không thu được gì hết. Hoặc các trường hợp núp bóng liên doanh giữa khối ngoại với DN trong nước để chuyển hết thị phần cho khối ngoại.
Theo cơ quan thuế, ước tính số tiền thuế thu được từ thương vụ chuyển nhượng BigC Việt Nam vào khoảng 3.600 tỷ đồng
Trong khi đó, dù đã có công cụ Kiểm tra nhu cầu kinh tế (Economic Need Test – ENT) trong tay để hạn chế sự bành trướng của khối bán lẻ ngoại nhưng Việt Nam vẫn lơ là, chưa thể tận dụng.
Theo giới chuyên gia từ Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), công cụ ENT thực chất là một loại "rào cản kỹ thuật" trong lĩnh vực bán lẻ mà các nước WTO đã chấp thuận để đổi lấy việc Việt Nam mở rộng cửa thị trường bán lẻ.
ENT có thể hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tình hình thực tế để xem xét có cấp phép mở từng cơ sở bán lẻ cho DN có vốn đầu tư nước ngoài hay không, trừ cơ sở bán lẻ thứ nhất.
Bao giờ tận dụng ENT?
Trên thực tế, ENT được thiết kế như một công cụ cho phép Việt Nam kiểm soát được số lượng cơ sở bán lẻ của một nhà bán lẻ nước ngoài tại Việt Nam và giới hạn số lượng này tuỳ thuộc vào nhu cầu kinh tế trong những bối cảnh cụ thể.
Do đó, nếu biết cách sử dụng hiệu quả, ENT được coi như một "chốt chặn" quan trọng của Việt Nam trong việc kiểm soát các nhà phân phối nước ngoài tại thị trường của mình, bảo hộ hợp lý và hợp pháp các nhà bán lẻ trong nước.
Thế nhưng, điều đáng ngạc nhiên là Việt Nam lại chưa vận dụng được công cụ ENT. Khối bán lẻ ngoại mở tiếp điểm bán thứ hai rất nhanh mà không cần điều kiện kinh tế gì hết, thiếu quy hoạch, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp FDI đổ vào Việt Nam, mua tràn lan và phát triển hệ thống bán lẻ trên đất Việt Nam, cạnh tranh quyết liệt trực tiếp với các nhà bán lẻ trong nước.
Giới chuyên gia từ Trung tâm WTO và Hội nhập cho rằng công cụ ENT ở Việt Nam chưa được vận dụng một cách hiệu quả. Nhiều địa phương thực hiện ENT khá sơ sài, không có phân tích đầy đủ, không tham vấn các cơ sở bán lẻ địa phương.
Điều này đã dẫn tới hiện tượng cấp phép lập cơ sở bán lẻ của nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt, dễ dàng. Hệ quả là các cơ sở bán lẻ nội địa buộc phải cạnh tranh vất vả hơn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Ts. Nguyễn Thị Thu Trang (VCCI), sắp tới, với cam kết trong TPP hay EVFTA, công cụ ENT đối với nhà bán lẻ nước ngoài trong tương lai sẽ vẫn được áp dụng. Vấn đề còn lại của chúng ta là làm thế nào để thực thi và tận dụng tốt công cụ này. Bởi vì ta không cam kết gỡ bỏ hoàn toàn ENT, ta vẫn còn công cụ này đối với nhà bán lẻ các nước khác.
Và điều mà bà Trang muốn lưu ý là nhiều địa phương vì nhu cầu thu hút đầu tư từ khối DN FDI vào địa phương mình mà đã bỏ qua công cụ ENT một cách đáng tiếc, "bảo hộ" một cách hợp pháp cho các nhà bán lẻ nước ngoài.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, đã đàm phán được với các đối tác và họ đã chấp nhận câu chuyện này. Vì thế, trong câu chuyện đòi thuế BigC Việt Nam, trước sự ma mãnh của khối bán lẻ ngoại, không có lý gì mà ENT không thể là công cụ để bảo vệ hợp pháp cho ngành bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới?
Thế Vinh