Trong báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) mới đưa ra vào tháng 6/2018, có lưu ý phí tổn về mặt thời gian mà các doanh nghiệp (DN) bỏ ra cho hoạt động xuất nhập khẩu là thấp hơn so với mức bình quân của ASEAN-4 (bao gồm Singapore, Malaysia, Thái Lan và Philippines).
Theo đó, thời gian tuân thủ về chứng từ kiểm tra chuyên ngành để nhập khẩu tại Việt Nam (76 giờ) cao hơn đáng kể so với mức bình quân của ASEAN-4 (28 giờ).
Bóc tách phí tổn
Các nhà phân tích cho biết thời gian để DN tuân thủ thủ tục và logistics cho hoạt động xuất khẩu (XK) của Việt Nam, xét theo thời gian tuân thủ thủ tục quản lý chuyên ngành (50 giờ) và tuân thủ tại cửa khẩu (55 giờ), cao hơn rất nhiều so với bình quân của ASEAN-4 (lần lượt là 24 giờ và 37 giờ).
Cơ cấu thời gian XK cho thấy thời gian tuân thủ quy định, gồm thời gian tuân thủ kiểm tra chuyên ngành ngoài cửa khẩu, thời gian tuân thủ hải quan và các cơ quan khác tại cửa khẩu tương đương với chi phí logistics (bao gồm thời gian vận chuyển nội địa và thời gian xếp dỡ và lưu kho tại cảng), cả hai đều chiếm 50% tổng thời gian XK.
"Quy trình xếp dỡ và thời gian lưu kho tại cảng là khâu tốn thời gian nhất, chiếm đến 44%. Nếu bóc tách chi tiết hơn, tổng thời gian XK bao gồm thời gian tuân thủ chứng từ kiểm tra chuyên ngành chiếm tới 40%" – kết quả khảo sát từ WB chỉ rõ.
Riêng thời gian tuân thủ thủ tục hải quan chỉ chiếm 4%. Thời gian tuân thủ thủ tục với các cơ quan khác ngoài hải quan chiếm 6%. Còn thời gian vận chuyển nội địa chiếm 6%.
Giới chuyên gia nhận định thời gian và chi phí lưu kho trong quá trình vận chuyển trong nước có liên quan đến năng lực kho và sự chậm trễ do tuân thủ chứng từ kiểm tra chuyên ngành gây ra.
Điều đáng nói, chi phí xếp dỡ và lưu kho tại cảng cao chủ yếu là do chậm trễ phát sinh do tuân thủ thủ tục tại cửa khẩu dẫn đến lưu kho kéo dài, tăng thêm chi phí và thời gian tuân thủ tại cửa khẩu.
Liên quan đến vấn đề kiểm tra chuyên ngành, theo phản hồi gần đây từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), nhiều hoạt động kiểm tra chuyên ngành còn chưa rõ ràng về các loại hàng hóa phải thực hiện kiểm tra (không có Danh mục hàng hóa cụ thể phải kiểm tra). Điều này gây bất cập trong thực tế triển khai khi các chủ thể áp dụng sẽ khó khăn trong nhận diện các loại hàng hóa phải được kiểm soát.
"Với các hàng hóa mà chỉ phải kiểm tra chất lượng thì mục tiêu này có thể thực hiện được thông qua quy trình sau: DN thuê dịch vụ của tổ chức chứng nhận sự phù hợp để kiểm tra chất lượng hàng hóa và được cấp chứng nhận. Khi đó, DN xuất trình ngay cho cơ quan hải quan. Quy trình này không cần bất kỳ sự can thiệp nào về chuyên môn hay thủ tục của cơ quan quản lý chuyên ngành" – VCCI khuyến nghị.
![]() |
Phí tổn thời gian xuất nhập khẩu làm hạn chế năng lực thương mại của Việt Nam |
Rút ngắn được không?
Như phản ánh của nhiều DN hiện nay, đối với nhập khẩu, tuân thủ yêu cầu chứng từ về kiểm tra chuyên ngành là tốn thời gian nhất, còn xếp dỡ và lưu kho tại cảng có phí tổn về tiền cao nhất. Đối với XK, xếp dỡ và lưu kho tại cảng tốn thời gian và chi phí nhất.
Trước tình trạng còn "nặng" phí tổn thời gian cho hoạt động xuất nhập khẩu như hiện nay, trong điều kiện XK của Việt Nam có giá trị gia tăng thấp (phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu cho sản xuất XK), tầm quan trọng của việc giảm thời gian và chi phí nhập khẩu được cho là cần được ưu tiên hơn.
Trong chuyện này, phía hải quan cần phải chịu một phần trách nhiệm cho khâu can thiệp cuối cùng để thông quan hàng hóa tại cửa khẩu. Tuy nhiên, chi phí cho thời gian tuân thủ khâu thủ tục không chỉ phụ thuộc vào hải quan mà còn phụ thuộc thủ tục của cả vào các cơ quan kiểm tra chuyên ngành bên ngoài và tại cửa khẩu.
Một đại diện của Cục Hải quan Tp.HCM cho biết, khi theo dõi sát quá trình kiểm tra chuyên ngành, thời gian thuộc về trách nhiệm của hải quan chỉ chiếm 28%, còn 72% thời gian còn lại thuộc về các cơ quan chuyên ngành khác.
Xuất phát từ những vướng mắc thì Cục Hải quan Tp.HCM đã chủ động thành lập hai địa điểm kiểm tra chuyên ngành ở cảng Cát Lái và sân bay Tân Sơn Nhất nhằm tạo thuận lợi cho DN. Theo vị đại diện này, việc kiểm tra chuyên ngành ở Tp.HCM có chuyển biến tích cực, tuy vẫn còn tồn tại những vấn đề cần tháo gỡ tiếp.
Có thể thấy hệ thống văn bản kiểm tra chuyên ngành là quá nhiều (khoảng 400 văn bản). Trong ba năm trở lại đây đã giảm 4.400 mặt hàng phải quản lý và kiểm tra chuyên ngành nhưng như số liệu mới cập nhật từ Tổng cục Hải quan, đến nay còn gần 78.400 mặt hàng thuộc diện quản lý và kiểm tra chuyên ngành.
Với "rừng" văn bản và lượng mặt hàng lớn như vậy, việc các DN phí tổn nhiều thời gian, chi phí cho khâu thủ tục kiểm tra chuyên ngành là khó tránh khỏi. Như thế thì làm sao năng lực thương mại có thể nâng lên?
Thế Vinh