Chỉ tính riêng với câu chuyện các doanh nghiệp (DN) thuỷ sản ở miền Trung chịu thiệt hại hàng triệu USD vì bị nước ngoài hủy hợp đồng mua thủy sản do chịu ảnh hưởng của tình trạng ô nhiễm nguồn nước đã cho thấy một vài khó khăn bề nổi của ngành thuỷ sản hiện nay.
Ô nhiễm, hạn, mặn bủa vây
Điều này khiến cho lãnh đạo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) trong động thái mới đây đã phải gửi công văn kêu cứu lên Chính phủ và các bộ ngành liên quan.
Không chỉ đối mặt với ô nhiễm, tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn, dịch bệnh thời gian vừa qua đã và đang là những vấn đề lo ngại nhất của ngành thuỷ sản hiện nay khi vùng nguyên liệu có nguy cơ sụt giảm sẽ dẫn đến giảm sản lượng và thiếu hụt nguyên liệu.
Số liệu mới đây nhất của Vụ nuôi trồng thuỷ sản (Tổng cục Thuỷ sản) cho thấy diện tích vùng nuôi cá tra ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nửa đầu năm 2016 chỉ còn 3.200 ha (giảm 5,55% so với cùng kỳ năm ngoái).
Trong khi đó, xâm nhập mặn và tác động đối với nuôi trồng thuỷ sản ở vùng này ngày càng nghiêm trọng khi độ mặn đang lấn sâu vào nội địa từ 40km đến 70km, nhất là ở hạ lưu sông Tiền.
Điều này khiến cho vùng cá tra ở Bến Tre bị nhiễm mặn (gây chậm lớn, kém chất lượng), còn hàu thì chết hàng loạt. Do nước lưu thoát kém gây nguy cơ xì phèn nên phát sinh dịch bệnh với thuỷ sản, làm cho người dân thả giống ít, chủ yếu thăm dò (nhất là với tôm sú), tạo nguy cơ thiếu hụt nguyên liệu.
Tình trạng trên cũng đang diễn ra tại các tỉnh Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang đã bị ảnh hưởng lớn khi giảm tỷ lệ thả giống tôm sú và tôm chân trắng.
Để khắc phục những khó khăn vùng nguyên liệu thuỷ sản tại vùng ĐBSCL, bà Nguyễn Thị Băng Tâm, Vụ nuôi trồng thuỷ sản, cho rằng giải pháp trước mắt là phát triển mạnh các hình thức nuôi khác để nâng cao năng suất sản lượng nhằm bù đắp sản lượng thiếu hụt do thả chậm.
![]() |
Xuất khẩu cá tra có thể sẽ giảm 4%, chỉ đạt khoảng 1,6 tỷ USD trong năm nay
Về giải pháp lâu dài, cần rà soát và điều chỉnh quy hoạch các đối tượng nuôi chủ lực cho vùng ĐBSCL gắn với hạ tầng thuỷ lợi, cơ cấu lại đối tượng nuôi, hình thức nuôi phù hợp.
Theo giới chuyên gia, do ảnh hưởng hạn, mặn, sản lượng tôm nguyên liệu phục vụ chế biến trong nước đứng trước tình trạng thiếu hụt. Nhập khẩu tôm nước ngoài tăng cao, chủ yếu là từ Ấn Độ chiếm 70%, nhưng chất lượng tôm nhập khẩu rất khó đảm bảo.
Trong khi đó, Việt Nam lại đang bị EU cảnh báo về việc các lô hàng bị nhiễm chất lượng kháng sinh. Doanh nghiệp (DN) chế biến, xuất khẩu tôm chịu thiệt thòi nhất, đòi hỏi cần phải thay đổi.
Lo tăng trưởng thấp
Theo ông Ngô Quang Tú, Trưởng phòng chế biến bảo quản thuỷ sản thuộc Cục chế biến nông lâm thuỷ sản & nghề muối, nguồn lợi hải sản ngày càng giảm, nguyên liệu manh mún, nhỏ lẻ, chất lượng không đều đã gây nên tình trạng khan hiếm nguyên liệu phục vụ cho chế biến.
Khó khăn lớn, như lời ông Tú là trong việc tổ chức sản xuất, chế biến thuỷ sản hiện nay chưa có DN chế biến thuỷ sản nội địa lớn để định hướng sản xuất và tổ chức lưu thông, liên kết trong chuỗi nên phát triển thiếu tính bền vững.
Ông Tú cho rằng ngành thuỷ sản và các DN chế biến thuỷ sản vẫn thiếu chiến lược dài hạn cho thị trường nội địa, khi xuất khẩu khó khăn thì mới tính tới thị trường này. Bởi vì thực tế hầu như mọi hoạt động của ngành thuỷ sản đều hướng cho xuất khẩu.
Số liệu thống kê cho thấy trong số tổng sản lượng thuỷ sản trong năm 2015 là 6,56 triệu tấn, ước sản lượng thuỷ sản tiêu thụ nội địa là hơn 2,57 triệu tấn. Tuy nhiên, nếu ước sản lượng sản phẩm chế biến thuỷ sản tiêu thụ nội địa thì rất khiêm tốn, chỉ có 500.000 tấn.
Liên quan đến vấn đề xuất khẩu, số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan cho biết tính luỹ kế từ đầu năm 2016 đến ngày 15/8, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã đạt hơn 3,99 tỷ USD, có mức tăng 5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Mức tăng này khả dĩ hơn so với tình hình sụt giảm thê thảm hồi năm 2015, nhưng được cho là có mức tăng thấp, không như kỳ vọng. Nhất là khi thị trường thuỷ sản thế giới vẫn tăng trưởng đều đặn trung bình hàng năm 3,2%.
Việc tăng trưởng thấp này đến từ nhiều nguyên nhân, nhưng những khó khăn trong nguồn nguyên liệu do hạn hán, xâm nhập mặn và thị trường thiếu ổn định đã khiến xuất khẩu thuỷ sản không được như mong đợi, nhất là với xuất khẩu hai mặt hàng chủ lực là cá tra và tôm.
Theo dự báo của VASEP, dự kiến cả năm nay, xuất khẩu thủy sản sẽ đạt 7,1 tỷ USD, tăng 8% so với năm 2015. Xuất khẩu cá tra được dự đoán có thể giảm 4%, chỉ đạt khoảng 1,6 tỷ USD.
Hiện hơn 90% cá tra được Việt Nam xuất khẩu dạng phi lê đơn thuần. Giới chuyên gia cho rằng nếu ngừng xuất thô, tập trung xuất khẩu tinh, sẽ đem lại giá trị cao hơn nữa.
Ông Nguyễn Hùng Dũng, chuyên gia thủy sản, lưu ý các DN xuất khẩu nên nghĩ ngay tới việc biến cá tra thành bột Amino axit thủy phân có thị trường cực lớn. Mặt hàng này rất có tiềm năng với nhu cầu thế giới, lên đến 400 tỷ USD”.
Với xuất khẩu tôm, cả năm 2016 dự kiến sẽ đạt 3 tỷ USD, tăng 10% so năm ngoái; cá ngừ đạt 500 triệu USD, tăng 10%; mực, bạch tuộc đạt 450 triệu USD, tăng 5%…
Như lưu ý của ông Nguyễn Hùng Dũng, hệ thống Nafiqad là hệ thống kiểm soát toàn diện các cơ sở sản xuất từ A-Z nhưng chỉ kiểm tra sản phẩm cuối cùng khi mà tất cả đã sẵn sàng để xuất đi. Kiểm tra như vậy thì DN giải quyết được gì ngoài việc tiêu hủy hàng, gây tổn thất cho DN.
Trong bối cảnh thiếu hụt nguyên liệu, ông Dũng đề nghị các DN cần qua Ấn Độ, Banglades, sang các nước ở ASEAN…để kiểm soát cơ sở sản xuất nguyên liệu, nuôi, trại giống sử dụng kháng sinh, các cơ sở chế biến, sơ chế của họ xuất sang mình nhằm kiểm soát từ nguồn.
Ông Ngô Quang Tú, Cục chế biến nông lâm thuỷ sản & nghề muối ------------------------------- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết giữa người sản xuất nguyên liệu, chế biến và nhà phân phối lưu thông sản phẩm thuỷ sản. Bởi thực tế, cả nước có 10 triệu hộ nông dân thì cần phải có tổ chức sản xuất – tiêu thụ phù hợp mới có thể tạo ra sản phẩm tốt, an toàn. Ông Trương Đình Hoè, Tổng Thư ký VASEP PGs.Ts Trần Ngọc Hải, Đại học Cần Thơ |
Thế Vinh