Mới đây, Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương) vừa đề nghị Tổng cục Hải quan sớm hoàn thiện các thủ tục hải quan theo quy định để thông quan đối với mặt hàng do Formosa nhập khẩu, đảm bảo nguồn than cho sản xuất điện của nhà máy nhiệt điện Formosa tại Đồng Nai. Theo lý giải của Tổng cục Năng lượng, dự án Nhà máy nhiệt điện Formosa do công ty TNHH Hưng nghiệp Formosa (tại Đồng Nai) làm chủ đầu tư có công suất 2x150 MW, sử dụng nguồn than nhập khẩu đã đi vào vận hành từ năm 2004.
Hiệu ứng domino?
Tại Thông báo số 101/TB-VPCP ngày 9/7/2003 của Văn phòng Chính phủ, truyền đạt ý kiến của Thủ tướng đồng ý cho phép Formosa nhập khẩu than để sử dụng cho mục đích phát điện của Nhà máy nhiệt điện Formosa. Do đó, việc Formosa đề nghị tiếp tục nhập khẩu than cho nhà máy nhiệt điện là phù hợp với quy định hiện hành.
Trước đó, Formosa đã gửi kiến nghị đến Tổng cục Hải quan, yêu cầu tháo gỡ vướng mắc trong thủ tục nhập khẩu than trực tiếp từ nước ngoài. Lý do của Formosa đưa ra là than trong nước có chất bốc thấp, không phù hợp với thiết bị công nghệ nhà máy phát điện của Formosa tại Đồng Nai. Đồng thời, Formosa là DN có kinh nghiệm và có nguồn cung tốt, do đó được quyền tự nhập than không qua doanh nghiệp nào cả.
Tuy nhiên, bối cảnh cho phép Formosa trực tiếp nhập than 2004 khác với hiện nay, khi đó than nhập giá rẻ được ưu tiên dùng cho các nhà máy điện, số lượng than khai thác trong nước được khai thác chủ yếu phục vụ xuất khẩu. Nhưng hiện nay, khi nhập khẩu than đang rất lớn, lượng tồn kho tăng cao và đặc biệt từ năm 2014, Chính phủ đã quy định ưu tiên sử dụng than trong nước để phát điện và các DN nhập khẩu than phải thông qua hai đầu mối chính, nhằm quản lý hoạt động nhập khẩu than.
![]() |
Ngành than lại đang đối mặt với tình trạng kim ngạch xuất khẩu liên tục sụt giảm
Cụ thể, trong Thông báo số 346/TB-VPCP chỉ đạo ngày 26/8/2014 Văn phòng Chính phủ đã công bố kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về việc nhập khẩu than. Theo quy định, phải qua hai đầu mối chính là: Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) hoặc Tổng công ty Đông Bắc.
Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế vừa bảo đảm các doanh nghiệp đầu mối tìm nguồn cung cấp ổn định, với chất lượng và giá cả phù hợp. Văn bản này có hiệu lực ngay từ thời điểm ban hành.
Không riêng Formosa, ngày 10/10/2016 công ty Hữu hạn Vedan Việt Nam (Đồng Nai) cũng có công văn xin Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài Chính, Công Thương và Tổng cục Hải quan cho nhập khẩu than trực tiếp về phát điện thay vì qua các DN được chỉ định theo quy định của Chính phủ từ năm 2014. Cũng giống như Formosa, lý do Vedan đưa ra là than trong nước có chất bốc thấp, không phù hợp với thiết bị công nghệ nhà máy phát điện.
Trong quá trình đầu tư và sản xuất, hàng tháng công ty này đều nhập than từ nước ngoài để sử dụng, trung bình mỗi tháng, công ty này nhập khoảng 31.500 tấn. Hiện Vedan Việt Nam đã thông qua chi nhánh Vedan tại Đài Loan ký hợp đồng dài hạn với Mitsui Group (Nhật Bản) để mua than đến hết tháng 3/2017.
Vì vậy, theo đại diện của Vedan, Thông tư 346 của Chính phủ quy định như vậy nhưng họ chưa có thời gian tìm hiểu và làm việc với TKV và Đông Bắc vì liên quan đến nhiều yếu tố như chủng loại than, chất lượng, giá cả và vận chuyển… Do đó, xin Thủ tướng xem xét cho nhập khẩu than trực tiếp, thực hiện hết hợp đồng đã ký với đối tác.
Nhập tăng, xuất giảm
Cùng với việc DN xin tự nhập than, hoạt động nhập khẩu than từ đầu năm “tăng trưởng” chóng mặt, đe dọa tới quy hoạch ngành than. Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, 9 tháng qua, cả nước đã nhập 10,5 triệu tấn than, trị giá khoảng 654 triệu USD. Ngành than được xếp vào một trong hai ngành có lượng và giá trị nhập khẩu tăng mạnh nhất 9 tháng qua, khoảng 147% về lượng và 82% về giá.
Đáng chú ý, Trung Quốc là nước cung cấp than ít nhất cho Việt Nam (đứng thứ 4 trong số 4 nước cung cấp than cho Việt Nam sau Úc, Nga và Indonesia), nhưng giá than của Trung Quốc trung bình cao hơn nhiều so với các nước trên.
Cụ thể, 9 tháng đầu năm, Việt Nam nhập 1,4 triệu tấn than Trung Quốc, trị giá 119 triệu USD (tính bình quân là khoảng 85 USD/tấn). Trong đó, riêng tháng 9/2016, nhập khoảng 77.800 tấn, trị giá 9 triệu USD (tương ứng giá 115 USD/tấn).
Trong khi đó, Úc là nước cung ứng than nhiều nhất cho Việt Nam thời gian qua với 3,2 triệu tấn, tổng giá trị tương đương 203 triệu USD (bình quân khoảng 63,4 USD/tấn), thấp hơn 20 USD/tấn so với giá than của Trung Quốc.
Tháng 9/2016, than nhập từ Úc về Việt Nam vào khoảng 188.000 tấn, giá bình quân đạt 10 triệu USD, tương đương khoảng 53 USD/tấn, thấp hơn một nửa so với giá than nhập tháng 9/2016 của Trung Quốc.
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu đang trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu than chỉ đạt hơn 730.000 tấn, thu về 73,8 triệu USD, giảm 48% về lượng và hơn 51% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng than đá xuất khẩu được liệt vào nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm nhanh, nhiều nhất trong 9 tháng qua.
So với 9 tháng cùng kỳ năm 2015, lượng xuất khẩu than đạt hơn 1,4 triệu tấn, thu về 150 triệu USD thì lượng và giá trị xuất khẩu của ngành than thời gian qua chỉ bằng 50% khối lượng và giá trị.
Việc giảm xuất khẩu than không chỉ tác động đến sản xuất mà còn ảnh hưởng đến công ăn việc làm của hàng triệu lao động ngành than. Mới đây, TKV cho biết sẽ cắt giảm hơn 4.000 lao động trong ngành vì doanh thu và lợi nhuận đều sụt giảm…
Theo thông báo mới nhất về tình hình sản xuất kinh doanh nửa đầu năm nay, TKV cho biết, tính đến ngày 20/10, lượng than tồn kho đã gần 10 triệu tấn. Xuất khẩu than giảm nhanh, nhiều trong khi lượng tồn kho của ngành này đang lớn nhất từ trước đến nay.
Ông Nguyễn Văn Biên, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn TKV, cho biết, năm nay, ngành than vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn thách thức.Hiện nguồn than tiêu thụ trong nước của TKV chủ yếu phục vụ cho ngành điện. Tuy nhiên, với bối cảnh tiêu thụ khó khăn, xuất khẩu giảm sút, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2016 của tập đoàn.
Ông Nguyễn Văn Biên, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam ------------------------------- Trong số than nhập khẩu từ đầu năm tới nay, Vinacomin chỉ nhập khoảng một triệu tấn, còn lại chủ yếu là của các doanh nghiệp nhập khẩu thương mại. Sản lượng than nhập khẩu từ các nước tăng nhanh, gây sức ép lên ngành than nội địa. Dự kiến, sản lượng than trong năm 2016 giảm 8,5% và ngành đang gặp nhiều khó khăn. Ông Nguyễn Thành Sơn, Chuyên gia kinh tế Ts. Lê Đăng Doanh, Chuyên gia kinh tế Thực tế, nhập khoáng sản về phục vụ sản xuất là việc bình thường trong nguyên tắc thương mại quốc tế. Tuy nhiên, ở đây phải xem việc chúng ta xuất than đẹp nhưng giá theo hợp đồng nguyên tắc hai bên, không phải theo giá thị trường nhằm giúp đối tác thường xuyên nhập than để ổn định sản xuất ngành, nuôi sống công nhân. Trong khi đó, giờ đây chúng ta phải nhập than theo giá thị trường hàng hóa quốc tế, thậm chí cao hơn. |
Lê Thúy