Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), nhận định tự do hóa thương mại càng sâu rộng, yêu cầu của các nước đối tác với hàng xuất khẩu càng cao, như khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ quy định liên quan đến hàng rào kỹ thuật, năng lực cạnh tranh của DN…
Có thể thấy, đối với các hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam đã tham gia ký kết, mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa cao gây nhiều sức ép đến sản xuất trong nước. Đặc biệt, trong giai đoạn từ nay đến năm 2018, với mức xóa bỏ thuế quan sâu rộng nhất, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến một số ngành không phải là thế mạnh của Việt Nam.
“Săn mồi” một mình
Cũng theo ông Trần Thanh Hải, cấu trúc hàng hóa xuất khẩu chưa thực sự có bước đột phá đặc biệt sau khi một số FTA được ký, song bước đầu cũng đã có sự dịch chuyển tích cực trong cơ cấu xuất khẩu với các mặt hàng chế biến cao và đòi hỏi trình độ công nghệ cao hơn.
Đây cũng là tiền đề để Việt Nam có bước chuyển biến mạnh mẽ hơn trong việc chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu khi tham gia các FTA tới đây. Nhưng trước mắt cần bàn đến những điểm yếu trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các DN Việt hiện nay, nhất là khi việc tham gia này còn rất hạn chế.
Đơn cử như chỉ số sản xuất sản phẩm trung gian thấp hơn so với chỉ số sản xuất sản phẩm phục vụ sử dụng cuối cùng. Sản phẩm trung gian trong sản xuất công nghiệp của Việt Nam còn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nhập khẩu và tỷ lệ nội địa hóa thấp.
Điển hình nhất là ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn phát triển chậm, đặc biệt trong các ngành công nghiệp dệt may, da giày, sản xuất ô tô, tivi và máy vi tính… Chẳng hạn, tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi, mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, nhưng đến nay mới đạt bình quân 7 – 10%.
Ngay trong cơ cấu xuất nhập khẩu mà chuỗi cung ứng đóng một vai trò lớn, giữa khối DN nội và khối DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng thể hiện rõ sự hạn chế của DN Việt. Theo nhận định của Bộ Công Thương, nhập khẩu và xuất khẩu của khối DN FDI tăng cao hơn so với nhập khẩu và xuất khẩu của khối DN trong nước.
Cụ thể, năm 2016, nhập khẩu của khối DN FDI tăng 5,1%, khối trong nước tăng 4%, xuất khẩu của khối DN FDI tăng 11,8% (không kể dầu thô), khối trong nước tăng 4,8%, điều này cho thấy sản xuất của các DN trong nước còn nhiều khó khăn.
Trong buổi tiếp xúc với giới DN tại Tp.HCM vào cuối tuần qua nhằm trao đổi về “Tự do thương mại – cơ hội và thách thức tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Zulkifli Bin Baharudin, Chủ tịch điều hành Tập đoàn giao nhận và vận chuyển quốc tế ITL (Singapore), đã nói nôm na rằng “các DN Việt Nam có điểm yếu trong chuỗi cung ứng là thích đi ‘săn mồi’ một mình”.
![]() |
Các DN Việt cần phải liên kết lại, “đi săn theo đàn”
“Đi săn theo đàn”
Theo ông Zulkifli, muốn chen được chân vào chuỗi cung ứng toàn cầu, yêu cầu đặt ra là các DN Việt cần phải liên kết lại, “đi săn theo đàn” để mạnh hơn và nhanh hơn nếu muốn tiếp cận thị trường quốc tế tốt hơn. Tầm nhìn hạn hẹp, chiến lược kinh doanh thất thường kiểu “ăn xổi” (điển hình như các DN trong ngành bất động sản hoặc dệt may, da giày) cũng là điểm hạn chế cốt tử của DN Việt trong chuỗi cung ứng, như lời của ông Zulkifli.
Dành lời khuyên cho các DN Việt khi tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, vị lãnh đạo Tập đoàn ITL nhấn mạnh cần phải là “người dẫn đầu ở phía trước mà không phải phía sau”. Nếu các DN Việt muốn kinh doanh ở phạm vi toàn cầu, phải nhìn ra thị trường toàn cầu và dẫn dắt thị trường, không thể dựa vào môi giới, trung gian như hiện nay.
Một khi còn phụ thuộc vào trung gian, các DN Việt chỉ có thể làm ra một nửa sản phẩm hoàn chỉnh, còn lại đã bị DN nước ngoài “ăn” mất phần. Theo Gs. Arnoud De Meyer – Chủ tịch Đại học SMU (Singapore), chuỗi cung ứng toàn cầu là điều tất yếu mà các DN Việt cần, bởi vì chỉ có tham gia vào chuỗi cung ứng, DN mới tồn tại và phát triển được.
Do vậy, DN Việt cần phải tận dụng được cơ hội, hạn chế thách thức. Gs. Arnoud khuyến nghị: DN cung ứng Việt Nam muốn vươn lên trở thành nhà cung ứng toàn cầu cần phải làm tốt việc sáng tạo ra quy trình sản xuất, tập trung vào chất lượng để sản xuất ra sản phẩm đồng nhất về tiêu chuẩn, chất lượng.
Hơn nữa, cần phát triển khả năng dịch chuyển từ sản phẩm giá trị thấp sang sản phẩm giá trị cao. Nếu làm được điều này, DN Việt không chỉ đứng vững ở thị trường xuất khẩu mà còn phát triển ở thị trường nội địa.
Để các DN Việt có thể nhìn rõ xu hướng tham gia chuỗi cung ứng, Gs. Shantanaru Bhattacharya (Singapore) cho biết, mô hình phổ biến của các nước phát triển ở châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,… trong thời gian qua là sản xuất công nghiệp theo hướng dịch chuyển quy trình sản xuất sản phẩm đồng nhất với số lượng lớn để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.
Các nhà cung ứng địa phương ở các quốc gia trên đã tập trung vào sản xuất những sản phẩm đồng nhất với số lượng lớn nhằm cung cấp cho DN lớn hơn và tiếp tục phát triển quy mô sản xuất để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Gs. Shantanaru cũng lưu ý rằng với những tiêu chuẩn theo kiểu địa phương như hiện nay khó có thể giúp các DN Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam cần sớm tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế, điển hình như Mỹ, với các tiêu chuẩn cho từng ngành nghề, một kênh tham khảo tốt cho Việt Nam khi xây dựng tiêu chuẩn ở địa phương.
Thế Vinh