Theo nhận định của chuyên gia nghiên cứu Andrew Harker tại IHS Markit về dữ liệu khảo sát PMI ngành sản xuất Việt Nam, tăng trưởng ở lĩnh vực sản xuất của Việt Nam đã giảm trong tháng 5/2017. Cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tăng với tốc độ yếu hơn nhiều.
Kết quả phân tích từ chỉ số PMI qua khảo sát của IHS Markit cho thấy, tốc độ tăng sản lượng ở lĩnh vực sản xuất Việt Nam trong tháng Năm đã chậm lại và là mức thấp trong vòng bốn tháng gần đây.
Cũng trong tháng Năm, giống như sản lượng, tốc độ tăng của số lượng đơn đặt hàng mới đã chậm lại. Dẫn tới, cả tổng số lượng đơn đặt hàng mới và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đều tăng yếu hơn nhiều so với tháng Tư.
Quan ngại chỉ số PMI
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm ngày 1/5/2017 tăng 11% so với cùng thời điểm năm 2016 (cùng kỳ năm 2016 tăng 8,7%).
Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với mức tăng chung như sản xuất kim loại tăng 82,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 69,8%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 50,1%; sản xuất thiết bị điện, sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (chủ yếu là xi măng), đồ uống tăng từ 26,2% đến 40,6%.
Theo chuyên gia của IHS Markit, dù tất cả tham số của Việt Nam vẫn đang tăng trưởng song thực tế cho thấy sự lạc quan đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần bốn năm. Điều này cho thấy một số nhà sản xuất đang quan ngại về tình trạng suy giảm có thể sắp diễn ra.
Trái lại, vào tuần vừa qua, khi chưa công bố chỉ số PMI tháng Năm, trong trao đổi với Thời báo Kinh Doanh, Ts. Trần Du Lịch, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia, vẫn bày tỏ sự lạc quan với khối doanh nghiệp (DN) nội địa khi cho rằng tốc độ tăng trưởng về công nghiệp, nhất là chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trong 5 tháng trở lại đây đã tăng 9,5%, thấp hơn 9,7% của cùng kỳ năm 2016, nhưng không phải là kém.
Theo Ts. Lịch, đó là do nhập khẩu của khối DN trong nước trong 5 tháng qua đã tăng 19%, song chủ yếu là nhập nguyên liệu để phục vụ sản xuất, như vậy có nghĩa rằng các DN này có đơn đặt hàng, có dấu hiệu tích cực.
Trong khi đó, theo hướng ít lạc quan hơn, Ts. Vũ Thành Tự Anh – Giám đốc nghiên cứu của Đại học Fulbright, phân tích, sản xuất công nghiệp phụ thuộc nhiều vào khu vực DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Điển hình như lĩnh vực linh kiện, điện thoại – vốn đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sản xuất công nghiệp. Cụ thể, nếu như quý I/2016, tốc độ tăng trưởng của riêng ngành điện thoại di động là 14,2%, sang quý I/2017 giảm xuống mức –10,7%, đây là một sự suy giảm “khủng khiếp”.
![]() |
Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam đang có xu hướng chậm lại và tồn tại nhiều điểm nghẽn
Trách nhiệm Bộ Công Thương?
Mới đây, tại hội thảo về cơ cấu lại ngành công nghiệp Việt Nam giai đoạn năm 2017 – 2020 hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững do Bộ Công Thương tổ chức, ông Cao Quốc Hưng, Thứ trưởng Bộ Công Thương, có lưu ý một vấn đề đáng lo ngại khi Việt Nam hiện đang đứng thứ 101 trong tổng số 143 nước về chỉ số giá trị gia tăng trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo theo bình quân đầu người. Đây là những vấn đề đáng lo ngại khi Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa.
Bộ Công Thương nhận định, trong những năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đang có xu hướng chậm lại, từ trung bình 14,3%/năm của giai đoạn năm 2006 – 2010 giảm xuống 10%/năm trong giai đoạn năm 2011 – 2015 và giảm hầu hết trong các nhóm ngành công nghiệp.
Những điểm nghẽn cho tăng trưởng công nghiệp đã được lãnh đạo Bộ Công Thương chỉ rõ là: tăng trưởng công nghiệp phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên; lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng; một số ngành công nghiệp chủ đạo chưa được tổ chức theo mô hình chuỗi giá trị, nhất là các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu.
Hơn nữa, công nghiệp là ngành liên tục nhập siêu cho thấy ngành công nghiệp Việt Nam còn phụ thuộc vào nhập khẩu, thiếu chủ động và dễ tổn thương trước các biến động của thị trường thế giới, nhất là nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất.
Ngoài ra, một số ngành công nghiệp trọng điểm do các DN nhà nước nắm vai trò chủ đạo có hiệu quả hoạt động chưa cao. Việc đầu tư trong công nghiệp chưa đi vào chiều sâu, việc thu hút và tận dụng nguồn đầu tư trực tiếp của khối FDI còn nhiều hạn chế, nhất là việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
Thực ra, những điểm nghẽn này không hề mới bởi đã được giới chuyên gia cảnh báo từ khá lâu. Đến giờ, Bộ Công Thương nêu ra cũng là lặp lại chuyện cũ. Song điều đáng nói ở đây là Bộ Công Thương, với vai trò bộ chủ quản về các ngành công nghiệp, đã biết rất rõ những điểm nghẽn này nhưng lại để tồn tại mãi những trì trệ, tụt dốc của lĩnh vực sản xuất công nghiệp, quả thật trách nhiệm của bộ này vô cùng lớn.
Lẽ ra, vấn đề cơ cấu lại ngành công nghiệp Việt Nam giai đoạn năm 2017 – 2020 hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững phải được làm từ nhiều năm trước chứ không phải bây giờ. Song việc cơ cấu này đang đòi hỏi phải cơ cấu lại cách thức quản lý của Bộ Công Thương để các ngành công nghiệp của Việt Nam không tiếp tục bị rơi vào đà tăng trưởng thấp, chậm, cạnh tranh kém.
Thế Vinh