Đó là câu chuyện về bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khi tiếp cận những dự án công nghệ thông tin (CNTT) trong lĩnh vực sử dụng vốn Nhà nước, về startup công nghệ gặp khó khăn trong vấn đề vốn, hành lang pháp lý hay thiếu nguồn nhân lực CNTT chất lượng.
“Một cổ hai tròng”
Ông Nguyễn Trung Chính – Chủ tịch Nhóm Công tác Kinh tế số VPSF, Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT) CMC Group – cho biết, nền kinh tế số ASEAN đạt 150 tỷ USD, xấp xỉ 6% GDP ASEAN (2,5 nghìn tỷ USD) và xấp xỉ 5% tỷ trọng kinh tế số toàn cầu. Dự báo năm 2020, kinh tế số có tốc độ tăng 17%/năm (tổng nền kinh tế dự báo tăng 9%/năm). Việc thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế số có thể khiến GDP của ASEAN tăng thêm 1.000 tỷ USD trong vòng mười năm tới.
Nhiều nước rất quan tâm đến kinh tế số. Cụ thể như: Thái Lan đã thành lập Bộ Xã hội và Kinh tế Kỹ thuật số để thay thế Bộ Công nghệ thông tin và Truyền thông; Malaysia đặt mục tiêu kinh tế số chiếm 17% tỷ trọng nền kinh tế.
Ở Việt Nam, thương mại điện tử năm 2016 đạt 900 triệu USD, tăng 50% so với năm 2015, ước tính đến năm 2020 đạt 5 tỷ USD, tăng 54%/năm. Cũng theo ước tính đến năm 2020, Việt Nam có 60 triệu người dùng smartphone, chiếm 60% dân số, tăng gấp 30 lần so với năm 2010; quy mô thị trường quảng cáo trực tuyến, theo xu hướng tăng nhanh hiện nay, sẽ tăng trên gấp 3 lần, đạt 950 triệu USD (năm 2016 đạt 390 triệu USD).
Việc xuất hiện xu thế “số hóa” ở mọi lĩnh vực từ thương mại, thanh toán cho đến vận chuyển, giáo dục, sức khỏe… giúp mở ra nhiều cơ hội tham gia nền kinh tế số của các DN đối với hoạt động mở rộng thị trường không chỉ ở Việt Nam mà còn cung cấp dịch vụ trong khu vực.
Tuy nhiên, theo các DN, hiện nay vẫn chưa có cơ chế chính sách cụ thể cho các DN mới theo những mô hình kinh doanh số, chưa thuận lợi cho các DN kinh tế số khi tham gia. Chưa kể, các DN truyền thống sẽ cạnh tranh gay gắt với các DN mới theo mô hình kinh doanh số, điển hình như taxi truyền thống với Grab và Uber trong thời gian qua.
“Kinh tế số dựa trên nền tảng Internet chứa nhiều nguy cơ về bảo mật, an toàn thông tin và thiếu nguồn nhân lực công nghệ cao”, ông Chính cho biết.
Dưới góc độ DN, liên quan tới thực thi Nghị quyết 36a về Chính phủ điện tử và sử dụng ngân sách trong ứng dụng CNTT, ông Bùi Quang Ngọc – Phó Chủ tịch HĐQT FPT, kiến nghị, cần bình đẳng các thành phần kinh tế khi tiếp cận những dự án CNTT trong lĩnh vực sử dụng vốn Nhà nước; Không phân biệt thành phần kinh tế khi tham gia các chương trình tin học hóa cho khu vực công quyền. Hiện có một số dự án hạn chế sự tham gia của DN tư nhân. Đồng thời hạn chế việc trợ giá không lành mạnh từ một số DN Nhà nước.
“Tôi biết có một số chương trình CNTT trong một vài lĩnh vực được cơ quan Nhà nước có ý kiến chỉ đạo bằng “miệng”, tuy không chính thức, về việc hạn chế sự tham gia của DN tư nhân”, ông Ngọc nói.
Ông Ngọc cũng kiến nghị bỏ phí viễn thông công ích. Hiện nay, DN viễn thông đang phải đóng phí thương quyền (0,5%/doanh thu) và phí viễn thông công ích (1,5%/doanh thu) vào quỹ do Bộ TT&TT quản lý và sử dụng là “một cổ hai tròng”.
Ông Ngọc cho rằng: “Sau khi nộp các nghĩa vụ thuế, phí với Nhà nước, việc đóng góp công ích nên xuất phát từ tính tự nguyện của DN. Việc đóng góp dựa theo phần trăm doanh thu là không hợp lý. Internet là hạ tầng kết nối của nền kinh tế số, của cuộc sống văn hóa, kinh tế, kỹ thuật, cần khuyến khích hỗ trợ thay vì nộp thêm phí”.
![]() |
Việt Nam vẫn chưa có cơ chế chính sách cụ thể cho các DN mới theo các mô hình kinh doanh số
Vị đại diện DN này cũng kiến nghị thay thế Nghị định 102 về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Thực tế, triển khai Nghị định này đã gặp rất nhiều bất cập. Việc lập dự án trung bình kéo dài hai năm, nhiều dự án sau ba năm vẫn chưa xong việc chuẩn bị, khiến cho các chủ đầu tư buộc phải lách các quy định, hoặc xé nhỏ dự án ra để lách…
Liên quan tới vướng mắc của các startup công nghệ, ông Trịnh Minh Giang – Tổng Giám đốc công ty VMCG – kiến nghị, hiện nay không có hành lang pháp lý liên quan tới việc một công ty đầu tư cho công ty khác, trong danh mục đăng ký kinh doanh không có điều này, chỉ dành cho công ty đầu tư chứng khoán.
“Đói” nhân lực chất lượng cao
Cùng với đó, để có điều kiện hoạt động tốt cho khởi nghiệp sáng tạo, ông Giang nhận định, hiện khái niệm khởi nghiệp sáng tạo chưa rõ ràng với DN và cơ quan quản lý Nhà nước, cho nên cần có khái niệm rõ hơn là DN khởi nghiệp dựa trên mô hình kinh doanh sáng tạo, mà không nhất thiết là lĩnh vực công nghệ.
Vì vậy, “có nhiều DN đang hoạt động trong hệ sinh thái khởi nghiệp, đó là tổ chức, chương trình cố vấn khởi nghiệp, vườn ươm khởi nghiệp nhưng chưa có mã ngành trong việc đăng ký kinh doanh nên khó hỗ trợ. Kể cả hoạt động đang hỗ trợ tốt cho khởi nghiệp song hiện nay cũng không được hỗ trợ gì cả”, ông Giang cho biết.
Ông Giang cũng đề nghị Chính phủ, đặc biệt Bộ KH&CN, có chương trình xây dựng không gian làm việc dùng ngân sách Nhà nước, trong đó có mô hình hỗ trợ pháp lý cho công ty khởi nghiệp. Hiện mới chỉ có một vài đơn vị tư vấn đang làm, còn thiếu vắng sự có mặt của Nhà nước, mặc dù hoàn toàn có ngân sách, có cơ chế quản lý để làm.
Bên cạnh đó, về thành phố thông minh, theo Bộ TT&TT, hiện nay 20 tỉnh đã chủ động xây dựng thành phố thông minh nhằm giúp các DN tận dụng hạ tầng CNTT để phát triển những sản phẩm dịch vụ, xuất khẩu ra toàn cầu.
Tuy nhiên, phát triển thành phố thông minh hiện đang gặp phải những vướng mắc như chi phí triển khai lớn khi yêu cầu phải có kế hoạch triển khai tổng thể cho các lĩnh vực. Nếu chỉ triển khai để giải quyết từng vấn đề như điện, nước, giao thông… sẽ dẫn tới phân mảnh dữ liệu, thông tin, các bên không hợp tác được với nhau và chi phí sẽ tăng so với triển khai theo kế hoạch tổng thể. Do đó, thiếu ngân sách cho triển khai thành phố thông minh.
Ngoài ra, về nhân lực công nghệ thông tin, báo cáo của Vietnamworks cũng cho biết, nhu cầu nhân sự ngành CNTT đang ở mức cao nhất trong lịch sử với gần 15.000 việc làm được tuyển dụng trong năm 2016.
Theo dự báo, so với nhu cầu tính đến cuối năm 2018, Việt Nam sẽ thiếu khoảng 70.000 nhân lực về CNTT. Đến năm 2020, dự báo thiếu khoảng 500.000 nhân lực CNTT. Chất lượng nhân lực còn yếu nên sau khi tiếp nhận, các DN phải đào tạo lại, thông thường mất một năm.
Còn theo ông Trần Thanh Nam, Giám đốc công ty Moca, vướng mắc về nguồn nhân lực là vướng mắc lớn, “khẩu vị” của người lao động Việt Nam thích đi làm Nhà nước hơn là DN startup. Như vậy, làm sao thu hút được người lao động tới làm với chủ lao động startup.
“Tôi nghĩ Nhà nước nên có các chính sách khuyến khích thu hút lao động làm việc trong các DN startup bằng cách giảm thuế thu nhập cá nhân cho người lao động”, ông Giang khuyến nghị.
Lê Thúy
Ông Nguyễn Trung Chính, - Chủ tịch Nhóm Công tác Kinh tế số VPSF Nếu cứ loay hoay sửa các quy định dựa trên Nghị định gốc 02 sẽ rất khó, cho nên cần “đập đi xây lại cái mới” mà không “cơi nới”. Nếu không cẩn thận, Nghị định sửa xong lại quy định nhiều thủ tục hơn cái cũ. Đập đi xây dựng cái mới, dù mất thêm thời gian nhưng hiệu quả sẽ tốt hơn, bởi vì mỗi lần có luật mới, DN rất sợ do thuận lợi thì ít, khó khăn thì nhiều. Ông Trần Thanh Nam, - Giám đốc công ty Moca Nói khó khăn về thu hút vốn với DN startup, tôi thấy đầu tư cho DN khởi nghiệp chủ yếu từ các nhà đầu tư nước ngoài. “Khẩu vị” của nhà đầu tư trong nước cho startup khác với “khẩu vị” của nhà đầu tư nước ngoài vì họ sợ rủi ro. Dẫn tới 90% xác suất là nhận vốn nước ngoài, chỉ 10% là của Việt Nam. Trong khi đó, ở Việt Nam, các DN startup không thể phát hành trái phiếu vì chưa có luật, để nhận vốn đầu tư, chúng tôi phải “lách”. Ts. Phạm Đăng Hải, Viện Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Bách Khoa Hà Nội Nhân lực ngành CNTT đang đối mặt với bài toán thiếu thì thiếu mà thừa vẫn thừa. Nhân lực CNTT của các trường đại học nhiều nhưng số lượng dùng thực tế chỉ 15%. Vì vậy, chúng ta không nên duy trì cách đào tạo truyền thống như ngày xưa nữa mà có thể 2 – 3 năm ngồi học trong trường đại học, còn 2 năm còn lại ngồi làm việc ở DN, như thế sẽ thực tiễn hơn. |