Như phản ánh mới đây, một số trang mạng nước ngoài chuyên đảm nhận dịch vụ đặt phòng, cho thuê căn hộ, thuê phòng trực tuyến, (đơn cử như Agoda.com, Booking.com, Hotels.com, Expedia.com…) đang thu hút một lượng lớn khách hàng Việt Nam với doanh số ngày càng lớn, có thể lên đến cả ngàn tỷ đồng.
Tuy nhiên, điều trớ trêu cơ quan quản lý thuế tại Việt Nam lại không thu được thuế từ các trang trực tuyến nước ngoài, thậm chí có thể nói là ngoài tầm kiểm soát. Điều này đã và đang gây bất lợi cho doanh nghiệp (DN) nội địa trong lĩnh vực này so với đối thủ ngoại.
Kẽ hở quản lý thuế
Chính Tổng cục Thuế cũng nhận thấy sự bất cập này nên cuối tháng 11/2016 đã ban hành công văn triển khai chương trình chống thất thu thuế đối với kinh doanh du lịch.
Công văn này lưu ý việc một số khách sạn thường ký hợp đồng bán phòng trọn gói cả năm với các đối tác nước ngoài là công ty du lịch quốc tế, website đặt phòng để đối tác nước ngoài tiếp tục bán phòng khách sạn cho khách quốc tế. Các đối tượng này phát sinh thu nhập tại Việt Nam nhưng không kê khai, nộp thuế đầy đủ theo quy định.
Trên thực tế, du lịch trực tuyến nói riêng và hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam của các DN nước ngoài đang đặt ra thách thức rất lớn cho cơ quan quản lý thuế, nhất là hoạt động chuyển giá.
Theo số liệu hồi năm 2015, qua kiểm tra 420 DN có hoạt động giao dịch liên kết, cơ quan thuế đã truy thu, truy hoàn và phạt 4.895,16 tỷ đồng; giảm lỗ 3.104,11 tỷ đồng; giảm khấu trừ 206,81 tỷ đồng và điều chỉnh tăng thu nhập chịu thuế 801,7 tỷ đồng. Riêng nửa đầu năm 2016, ngành thuế đã thanh, kiểm tra 85 DN phát sinh giao dịch liên kết, truy thu, truy hoàn và phạt 1.735,59 tỷ đồng.
Theo khảo sát gần đây của Cục Thương mại Điện tử và CNTT Việt Nam (VECITA), trong năm 2015, giá trị trung bình của giỏ hàng TMĐT của người tiêu dùng Việt Nam trị giá 150 USD so với mức 30 USD vào năm 2012 và được dự đoán sẽ đạt mức 600 USD và năm 2020.
Hướng đến năm 2020, số lượng người mua hàng trực tuyến được ước tính sẽ đạt 38,5 triệu người, tương đương 65% số lượng người dùng Internet, nâng doanh thu TMĐT B2C và C2C lên 23,1 triệu USD, gấp 7 lần so với năm 2015.
Nói về vấn đề né tránh thuế và chuyển giá trong TMĐT ở Việt Nam hiện nay, bà Nguyễn Thị Hánh, Phó trưởng ban thường trực Ban cải cách và hiện đại hóa Tổng cục Thuế, cho biết loại hình này đang phát triển nhanh chóng với sự tham gia của nhiều DN, nhiều loại hình TMĐT xuất hiện, mua sắm trực tuyến đang dần trở thành thói quen của người dân.
![]() |
Một số DN Việt Nam từng được World Startup Report định giá và xếp hạng với giá trị hàng trăm triệu USD, thậm chí đến cả tỷ USD. Một số DN Việt có doanh thu lên tới hàng ngàn tỷ đồng/năm và thực hiện xuất khẩu sản phẩm TMĐT ra nước ngoài.
Thách thức ở đây, theo bà Hánh, là cán bộ quản lý thuế chưa có nhiều kiến thức trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Điều đáng nói là nhiều sản phẩm số hóa trên TMĐT rất khó xác định giá trị thực và giá bán hoặc nhiều sản phẩm là các tài sản vô hình.
Hoạt động TMĐT có nhiều khác biệt xa so với giao dịch thương mại truyền thống như không có kho chứa hàng, không cần dự trữ nhiều hàng hóa…Chưa kể, thách thức lớn trong quản lý thuế đối với TMĐT hiện nay còn ở vấn đề giao dịch mang tính nặc danh, dễ dàng xóa bỏ, thay đổi, giấu tên và khó xác định giá trị và giá bán, khó tìm kiếm giao dịch tương đồng về sản phẩm và điều kiện giao dịch.
Ngày càng tinh vi
Ngoài ra, TMĐT cũng đặt ra thách thức trong việc xác định bản chất giao dịch và giá trị, giá bán sản phẩm vô hình. Hơn nữa, nó còn thách thức trong việc tìm kiếm các giao dịch độc lập hoặc các bên độc lập để so sánh trong quá trình xác định giá tính thuế…
Theo kết quả khảo sát của công ty Kiểm toán quốc tế KPMG, hơn 50% doanh nghiệp (DN) đã chuẩn bị xây dựng các bước trên dự thảo báo cáo chống sụt giảm thu nhập chịu thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS). Trong đó, có 80% DN ưu tiên xác định giá chuyển nhượng khi dành ít nhất 2 giờ/tuần.
Ông Hoàng Thùy Dương, Phó Tổng giám đốc KPMG, lưu ý chuyển giá là vấn đề phức tạp mang tính toàn cầu. Việt Nam cần xây dựng cơ sở hướng dẫn chống xói mòn chuyển giá về thuế. Đây bản chất là một vấn đề thuế, và với đặc thù là liên quan đến số tiền thuế lớn và tính chất phức tạp liên quan đến hai hoặc nhiều nước có thể dẫn đến đánh thuế trùng nên luôn là một trong những vấn đề thuế quan trọng nhất không chỉ đối với cơ quan thuế mà còn đối với các công ty đa quốc gia.
Về cơ bản, theo ông Dương, là cần giải quyết bài toán phân chia mức lợi nhuận hợp lý để đánh thuế. Dữ liệu so sánh luôn là vấn đề gây tranh chấp phổ biến, song không ở mức phức tạp như ở Việt Nam.
Thực ra, giá chuyển nhượng được nhìn nhận và mô tả như một công cụ mà các công ty đa quốc gia sử dụng trong kế hoạch thuế để tận dụng sự khác biệt trong hệ thống thuế, thu hút sự quan tâm và mức độ kiểm tra sát sao hơn.
PGs.Ts Hoàng Trần Hậu, Giám đốc Trường Bồi dưỡng cán bộ tài chính (Bộ Tài chính), nhận định rằng hành vi chuyển giá gần đây đã diễn ra phức tạp, xuất hiện trong nhiều loại hình DN có quan hệ liên kết kinh tế với nhiều hình thức khác nhau, tinh vi hơn, khó phát hiện hơn.
Chính sự thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật, sự lỏng lẻo trong kiểm soát đã tạo “lỗ hổng” cho DN tìm cách lách luật, thực hiện các hành vi gian lận trong kê khai thuế, hải quan. Thủ đoạn này không chỉ có các DN, các tập đoàn đa quốc gia mà ngày nay cả các DN trong nước cũng có biểu hiện của hành vi gian lận “chuyển giá nội địa”.
Thế Vinh