Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Đỗ Đức Quân, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, nhận định: “Là nước nông nghiệp với nhiều tiềm năng về năng lượng sinh khối, Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực nâng cao tỷ trọng sinh khối trong sản xuất điện năng.
Các cơ chế và chính sách khuyến khích phát triển điện sinh khối đã được ban hành năm 2014 và sửa đổi bổ sung năm 2020, nhằm khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này. Với các chính sách kế trên, Việt Nam hy vọng sẽ đạt được mục tiêu tỷ trọng điện sinh khối sản xuất đến năm 2030 chiếm 2,1% tổng lượng điện quốc gia đã được đề cập đến trong Quy hoạch Phát triển điện VII sửa đổi”.
Việt Nam hy vọng sẽ đạt được mục tiêu tỷ trọng điện sinh khối sản xuất đến năm 2030 chiếm 2,1% tổng lượng điện quốc gia |
Ông Joerg, Thư ký thứ nhất Đại sứ quán Đức tại Việt Nam khẳng định: “Dự án BEM sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Chính phủ Việt Nam tăng tỷ trọng của năng lượng sinh khối trong nước. Năng lượng gió và năng lượng mặt trời đã cho thấy khả năng phát triển mạnh tại Việt Nam, trong khi đó năng lượng sinh khối vẫn chưa được khai thác đúng mức.
Năng lượng sinh khối được coi là trụ cột quan trọng trong quá trình chuyển đổi năng lượng bền vững do tận dụng tối đa các nguồn phế phụ phẩm trong nông nghiệp như bã mía để phát điện, góp phần bảo vệ khí hậu. Số lượng các nhà máy điện sinh khối ngày càng tăng sẽ giúp Việt Nam đạt được Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC)”.
Theo ông Tobias Cossen, Giám đốc Dự án GIZ/BEM, Dự án BEM do Bộ Môi trường, Bảo tồn thiên nhiên và An toàn hạt nhân Công hòa Liên bang Đức (BMU) tài trợ thông qua Chương trình sáng kiến Khí hậu quốc tế (IKI) và do Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo Việt Nam phối hợp với GIZ thực hiện.
Dự án BEM sẽ được thực hiện tới năm 2023, nhằm thúc đẩy việc phát triển bền vững các nguồn tài nguyên sinh khối để sản xuất nhiệt và điện tại Việt Nam - một quốc gia có các nguồn tài nguyên sinh khối sẵn có từ các phế phẩm sau khi thu hoạch và sau khi chế biến các sản phẩm nông lâm sản. Dự án hướng tới cải thiện các điều kiện tiền đề cho việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên sinh khối để sản xuất điện và nhiệt trong cả nước. Trọng tâm dự án là nâng cao năng lực lập quy hoạch, năng lực kỹ thuật chuyên môn và tài chính cho các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực năng lượng sinh khối nhằm thực hiện các dự án đầu tư đạt hiệu quả.
Dự án tập trung vào 3 lĩnh vực hoạt động chính. Một là, tạo điều kiện và hỗ trợ điều chỉnh khung chính sách về lập quy hoạch và cấp phép thực hiện các dự án năng lượng sinh khối, cụ thể là ở cấp tỉnh. Cập nhật, đánh giá nhu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, nhằm hỗ trợ phát triển năng lượng sinh khối. Xây dựng các chiến lược quy hoạch phát triển nguồn năng lượng sinh khối ở địa phương và đưa ra các khuyến nghị cải thiện quy trình phê duyệt các dự án đầu tư năng lượng sinh khối.
Hai là, nâng cao năng lực cho doanh nghiệp tư nhân để triển khai việc thiết kế và phát triển các dự án đầu tư năng lượng sinh khối, bao gồm đánh giá nhu cầu về năng lực cho các đơn vị tư vấn năng lượng sinh khối, các nhà phát triển và nhà đầu tư. Nâng cao năng lực các tổ chức tài chính để huy động cấp vốn thực hiện các dự án đầu tư năng lượng sinh khối, bao gồm tư vấn thiết kế các tiêu chí đánh giá hiệu quả tài chính của các dự án đầu tư năng lượng sinh khối và thiết kế cơ chế tài chính dựa theo nhu cầu cấp vốn cho các dự án năng lượng sinh khối và các nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)/nguồn tài trợ thực hiện các biện pháp bảo vệ khí hậu.
Ba là, hợp tác công nghệ. Dự án sẽ hỗ trợ và thúc đẩy hợp tác công nghệ cũng như kết nối các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp quốc tế, viện nghiên cứu và các trường đại học về sử dụng tài nguyên sinh khối cho sản xuất điện và nhiệt.
Chu Khôi