Trong bối cảnh Việt Nam cần tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, bền vững giai đoạn 2018 – 2020, theo Ts. Trương Văn Phước, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, cần tính toán lượng cung tiền hợp lý từng năm để đảm bảo lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát và duy trì ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
Huyết mạch chưa thông
Cũng theo ông Phước, đi đôi với việc tăng trưởng kinh tế cao, cần tiếp tục củng cố ổn định vĩ mô, quyết liệt hơn trong thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế nhằm củng cố tài khóa, xử lý dứt điểm những yếu tố đe dọa bất ổn vĩ mô như nợ xấu, xử lý các ngân hàng yếu kém…
Trước hết, đó là các vấn đề nợ công và ngân sách. Tỷ lệ nợ công hiện ở mức cao và tiệm cận mức trần 65% GDP, áp lực trả nợ lớn. Tất cả chỉ số nợ công của Việt Nam, bao gồm cả tỷ lệ nợ công trên GDP, thu ngân sách, tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trên GDP… đều đã ở ngưỡng sát hoặc vượt quá ngưỡng an toàn.
Ví dụ, tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trên doanh thu Chính phủ đã đạt 27,4% trong năm 2015, vượt quá giới hạn cho phép chỉ ở mức 25%; nợ đọng thuế còn lớn; giải ngân vốn trái phiếu Chính phủ đạt thấp so với kế hoạch làm giảm hiệu ứng lan tỏa của chính sách công đến các khu vực kinh tế khác.
Thêm vào đó, cung ứng vốn từ một hệ thống tài chính hiện đại hóa cần tiếp tục giữ vai trò chủ chốt trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tiếp tục vai trò đòn bẩy hỗ trợ tăng trưởng ở mức cao.
Ông Phước cho biết, vốn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN) và được xem như huyết mạch của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2011 – 2015, yếu tố vốn đóng góp trên 54% vào tăng trưởng GDP của giai đoạn.
Sang giai đoạn 2016 – 2020, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, sự phục hồi nhu cầu thế giới vẫn chậm chạp, kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, cung ứng vốn từ hệ thống tài chính sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế.
Nhưng tính đến cuối năm 2016, độ sâu tài chính của hệ thống tài chính Việt Nam, một chỉ số đo lường khả năng cung ứng vốn của khu vực tài chính đối với nền kinh tế, chỉ ở mức 1,8 lần GDP, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Singapore là 4 lần, Malaysia là 3,7 lần, Thái Lan và Trung Quốc khoảng 3,3 lần, Philippines đạt gần 2 lần GDP.
Điều này cho thấy, vai trò quan trọng, chủ chốt của hệ thống tài chính đối với tăng trưởng kinh tế là không thể phủ nhận trong các giai đoạn trước 2016 và cả giai đoạn 2016 – 2020.
Tuy nhiên, hệ thống tài chính Việt Nam vẫn còn những tồn tại, khiến việc cung vốn vào nền kinh tế chưa được thông suốt và chất lượng, hiệu quả chưa cao.
Đặc biệt, đối với hệ thống ngân hàng, việc xử lý nợ xấu và các ngân hàng yếu kém còn chậm, nhất là các ngân hàng thương mại mua lại giá 0 đồng và ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt.
“Đây có thể xem là “điểm nghẽn” của hệ thống tài chính – huyết mạch của nền kinh tế; nếu không xử lý triệt để sẽ không thể giảm được mặt bằng lãi suất, giảm chi phí vốn của nền kinh tế cũng như ổn định kinh tế vĩ mô bền vững”, ông Phước đánh giá.
![]() |
Thị trường vốn của Việt Nam với nền tảng dựa vào hệ thống ngân hàng còn kém phát triển so với các nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Phlippines và Thái Lan, mặc dù độ sâu tài chính tương đối cao nhưng cấu trúc thị trường vốn Việt Nam chưa thực sự hoàn chỉnh.
Thị trường vốn chưa hoàn chỉnh
Phân tích thêm về thị trường vốn, theo Gs.Ts. Nguyễn Thị Cành, chuyên gia cố vấn Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Tài chính, thị trường của Việt Nam với nền tảng dựa vào hệ thống ngân hàng còn kém phát triển so với các nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Phlippines và Thái Lan, mặc dù độ sâu tài chính tương đối cao nhưng cấu trúc thị trường vốn Việt Nam chưa thực sự hoàn chỉnh.
Thị trường vốn bao gồm: thị trường chứng khoán, thị trường vay nợ dài hạn (tín dụng, trái phiếu), thị trường tín dụng thuê mua, thị trường cầm cố, thị trường bất động sản…
Trong khi đó, về thị trường tín dụng, với thị trường tài chính phát triển chưa cao, các công cụ tài chính chưa phát triển, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế từ thị trường chứng khoán còn khá nhỏ bé nên hệ thống ngân hàng phải đảm đương vai trò cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế Việt Nam.
Giá trị tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam chiếm tỷ lệ 159%, cao nhất trong nhóm của các nước ASEAN. Xét về giá trị tuyệt đối, tổng giá trị tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam thấp hơn so với bốn quốc gia trong khối ASEAN có hệ thống ngân hàng phát triển là Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia.
Đồng thời tỷ lệ tín dụng do hệ thống ngân hàng cung cấp/GDP của Việt Nam gia tăng rất nhanh, từ mức 35% năm 2000 lên mức 125% năm 2010 và giảm xuống còn 112% vào năm 2015.
Tỷ lệ tín dụng ngân hàng/GDP của Việt Nam ở mức cao so với hầu hết các nước trong ASEAN, phần lớn các nước này có tỷ lệ tín dụng ngân hàng/GDP thấp hơn 50%, và chỉ thấp hơn so với ba nước Malaysia, Singapore và Thái Lan.
Bà Cành nhận định, các quốc gia trong ASEAN có tỷ lệ tín dụng ngân hàng/GDP thấp sẽ hưởng được nhiều lợi ích hơn trong quá trình hội nhập tài chính. Những nước có tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cao nhưng thiếu hệ thống giám sát, ở một vài trường hợp, có thể tác động tiêu cực đến sự ổn định vĩ mô của các quốc gia này.
Về thị trường chứng khoán, Việt Nam lần đầu tiên đã có mặt trong bộ chỉ số FTSE/ASEAN vào năm 2014. FTSE ASEAN Stars Index bao gồm 30 công ty lớn nhất về vốn hóa và tính thanh khoản của mỗi quốc gia trong ASEAN.
Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 4 trong số 5 chỉ số chính tại khu vực gồm: FTSE ASEAN All-Share Index; FTSE ASEAN Sector Indices; FTSE ASEAN Star Index và FTSE ASEAN All-Share Developed Index.
Tuy nhiên, trong các chỉ số nói trên, chỉ số đại diện cho các cổ phiếu có vốn hóa lớn nhất và có tính thanh khoản cao nhất tại thị trường chứng khoán Đông Nam Á là FTSE/ASEAN 40 Index thì thị trường chứng khoán Việt Nam không có mặt.
So sánh giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán của sáu quốc gia trong khu vực ASEAN năm 2015 cho thấy quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn rất hạn chế so với các quốc gia trong khu vực, giá trị vốn hóa chỉ bằng khoảng 1/10 Singapore và 1/4 Philippines.
Ngoài ra, liên quan tới thị trường trái phiếu (TTTP), đến hết tháng 12/2016, TTTP của Việt Nam chiếm 22% GDP với tổng giá trị 44 tỷ USD. Khi so sánh với các quốc gia ASEAN, quy mô của TTTP Việt Nam thấp nhất cả về giá trị tuyệt đối cũng như phần trăm GDP. Đồng thời có một điểm đáng lưu ý là TTTP Việt Nam chủ yếu là trái phiếu chính phủ, giá trị niêm yết của trái phiếu DN rất thấp.
Lê Thúy
Ông Trương Văn Phước - Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Chính sách tiền tệ cần được điều hành linh hoạt hơn nữa, mở rộng cung tiền một cách hợp lý để hỗ trợ tăng trưởng. Tạo lập hệ thống cơ sở hạ tầng tài chính để xử lý nợ xấu của khu vực ngân hàng. Từ đó, tăng khả năng cung cấp tín dụng ra nền kinh tế thực và giảm lãi suất cho vay, giảm chi phí vốn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, hướng dòng vốn tín dụng vào khu vực sản xuất kinh doanh trong nước, đặc biệt là DN, ngành, lĩnh vực hiệu quả, năng suất, công nghệ cao – động lực chính của tăng trưởng trong giai đoạn tới. Bà Nguyễn Tú Anh Vụ - Chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước Cần tập trung vào các chính sách kích cung, nâng cao năng lực của nền kinh tế mà không phải là các chính sách tiền tệ, tài khóa đơn thuần để kích cầu. Việc quá chú trọng vào các chính sách kích cầu trong bối cảnh tiệm cận sản lượng tiềm năng như hiện nay không có hiệu quả nhiều mà chủ yếu sẽ tạo ra áp lực lạm phát sau này. Gs.Ts. Nguyễn Thị Cành - Chuyên gia cố vấn Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Tài chính Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia Tp.HCM Các nhà hoạch định chính sách vĩ mô cần chú trọng đến chất lượng phát triển tài chính hơn là phát triển tài chính theo chiều rộng để làm giảm biến động kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Đảm bảo sự lành mạnh, ổn định của hệ thống ngân hàng. Kiện toàn hệ thống giám sát tài chính để đảm bảo thị trường hoạt động một cách an toàn, hiệu quả. |